Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRUYỀN THỐNG TẬP 1-5



 GIỚI   Đ  ỨC   SA  DI THỨ    SÁU:

KHƠNG TRANG ĐIỂM


Không  trang  điểm  là  một  “ĐỨC THÁNH TỰ  NHIÊN”.  Người  xuất  gia  cũng  như người  tại  gia  cần  phải  học  hiểu  và  sống  đúng đức hạnh này.
Bản chất của con người dù nam hay nữ đều thích làm đẹp, nhất là phái nữ, dù là một người rất  xấu,  nhưng  họ  vẫn  cố  trang  điểm  làm  cho đẹp, vì thế mà các mỹ viện mọc lên rất nhiều.
Mục đích trang điểm làm đẹp là do tâm ái dục, tâm  ái  dục  luôn  muốn  cho mọi  người  phải để ý và mê mệt với mình. Đó là nguyên nhân ngấm ngầm bên trong thân và tâm của mình  để thể  hiện  tâm  sắc  dục,  tâm  sắc  dục  tức  là  tình dục,  khi mắt  thấy  sắc  của  người  khác  phái  thì tình dục  khởi  lên.  Vì  mục  đích  này  giới  nữ thường  ăn  mặc  hở  hang.  Muốn  khiêu  dâm  gợi dục,  hiện  nay  phái  nữ  thường  ăn  mặc  bày  da bày thịt theo người Tây Phương là để  khiêu gợi tâm sắc dục của người khác phái và cũng chính khiêu  gợi  tâm  sắc  dục  của  mình.  Đối  với  Đức Phật, Ngài rất hiểu rõ điều này, nên cấm đệ  tử

Văn hóa Phật giáo truyền thống – tập 1


của mình,  nhất là giới tu sĩ: ‚không cho trang điểm  làm  đẹp‛. Không cho làm đẹp là  để  diệt trừ  tâm  sắc  dục.  Trong  kinh Tăng  Chi  tập  1 trang 9 thuộc đại tạng kinh Việt Nam, đức Phật dạy: ‚Ta không  thấy một sắc  nào khác,  này các  Tỳ  Kheo,  xâm  chiếm và  ngự  trị  tâm người  đàn  ông như sắc  người  đàn  bà…  Ta không thấy một  sắc  nào  khác,  này  các  Tỳ kheo, xâm chiếm và ngự trị tâm người đàn bà,  như  sắc  người  đàn  ông…‛.  Đối  với  đạo Phật  tâm  sắc  dục  là  một  trong  những  tâm  ái dục, nó là con đường sinh  tử luân hồi; nó là con đường  khổ  đau; là  nguyên  nhân  sinh  ra muôn vàn đau khổ của con người. Vì thế, trong bốn chân lý của đạo Phật, nó là chân lý thứ hai gọi là  ‚Tập  đế‛.  Tập  đế  có  nghĩa  nơi  tập  họp  mọi sự  khổ  đau, hay nói  cách  khác  là  nguyên  nhân sinh ra mọi khổ đau của kiếp sống làm người.
Muốn xa lìa tâm sắc dục, mà còn trang điểm, làm đẹp thì không bao giờ xa lìa tâm sắc dục ấy được.
Tóc  râu  đã  cạo  bỏ,  còn  gì  là  đẹp đẽ   nữa đâu, thế mà  các Thầy tuy cạo bỏ râu tóc  nhưng còn sửa sang làm đẹp, cạo râu, cạo tóc thường xuyên,  quần  áo  chải  chuốt,  ủi  là  láng  bóng.

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Sang đẹp có  nghĩa  là  y áo  phải  may  bằng  vải hàng  nhập,  loại  hàng  tốt  nhất,  may  y áo  phải vừa vặn, không rộng, không chật, thường dùng gương soi mặt,  ngắm  trước,  ngắm  sau khi đi... Những hành động trang điểm làm đẹp như vậy là nuôi tâm sắc dục, ưa thích tâm sắc dục.
Người  còn  tâm  ưa thích  sắc  dục  thì còn trang  điểm,  còn  làm  đẹp thì tu  hành  chỉ  hoài công vô ích.
Đạo Phật muốn đào tạo những bậc Thánh Tăng,  Thánh  Ni A  La  Hán  nên  giới  luật  cấm trang  điểm làm  đẹp là  để   tâm  ly  dục  lìa  ác pháp. Có ly dục lìa ác pháp thì Đức Hạnh Tự Nhiên Thánh  Sa Di  này  mới  sống  đúng  và  giữ trọn  vẹn.  Ai  theo  đạo  Phật  tu  hành  mà  còn trang  điểm  làm  đẹp thì không  phải  là  Thánh Tăng,  Thánh  Ni,  Thánh  Sa Di  nữa  mà  là  Ma trong  đạo  Phật,  đội  lốt  Phật  giáo  để giết  Phật giáo. Bởi vậy, những tín đồ  Phật giáo cũng như những  người  ngoài  Phật  giáo,  khi thấy  một  vị tu  sĩ  ăn  mặc  sang đẹp  chải  chuốt  làm  đẹp  thì nên biết đó không phải là tu sĩ Phật giáo, mà là Ma đội lốt tu sĩ Phật giáo.
Xưa đức  Phật  lượm vải bó thây ma, vải bỏ của người khác về giặt sạch làm y áo của mình. Y áo ấy gọi là áo cà sa (Y phấn tảo), còn bây giờ

Văn hóa Phật giáo truyền thống – tập 1

y áo của tu sĩ  Phật  giáo rất  là  sang đẹp và  đắt tiền,  như  vậy  là  đi  ngược  lại  chủ  trương  đời sống  của  đạo  Phật  ‚Ba y  một bát  thiểu  dục tri túc‛.  Ba y một bát tức là hạnh ly  dục ly ác pháp.  Một  tu  sĩ  mà  không  sống   được  Phạm hạnh này thì không bao giờ tìm thấy sự giải thoát.
Người cư sĩ đem cúng dường y áo cho tu sĩ bằng  những  hàng  lụa  đẹp sang là  cúng  dường sai pháp, khiến cho tu sĩ trở thành phú Tăng, chứ không còn là bần Tăng.
Ăn  mặc  sang đẹp là  một  cách  trang  điểm làm đẹp; còn trang điểm làm đẹp là phạm giới, là  không  ly  dục ly  ác  pháp;  không  ly  dục ly  ác pháp   thì  làm   sao  được gọi   là   Thánh   Tăng, Thánh Ni, Thánh cư sĩ, đệ tử của đức Phật?
Muốn làm chủ sanh tử luân hồi, mà hành động  trang  điểm làm  đẹp không  từ  bỏ  thì làm sao chấm dứt sanh tử luân hồi được?
Mục đích xa lìa tâm ái dục nên phải xa lìa sự  trang  điểm,  làm  đẹp, cho nên  những  tu  sĩ đạo  Phật,  dù  nam  hay nữ,  đều  phải  cạo  bỏ  râu tóc, mặc áo cà sa, (áo vải thô xấu, vải liệm thây ma, v.v..), đi chân đất, đầu trần không đội nón.

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Người tu sĩ của Phật giáo hình dáng phải làm  cho  xấu  xí  thì  càng  dễ   tu.  Đó   cũng  là phương pháp ly dục ly ác pháp. Còn trang điểm làm  đẹp là  phương  cách  nuôi  tâm  dục  và  ác pháp.
Xưa ông  A Nan  vì  quá  đẹp trai  nên  sự  tu tập của ông phải gian nan với người khác phái.
Có  thân  hình  đẹp đẽ  là  hình  dáng  dễ  gợi lòng yêu thương, ái dục, khiến cho chúng ta khó xa lìa tâm ái dục.
Có  một  cô  gái  người  Nhật  Bản  vào  chùa xin   tu,  nhưng  vị  trụ  trì từ  chối  không  chấp nhận và bảo cô rằng: “Cô không tu được”.

- Tại sao vậy?.

- Vì cô quá đẹp.

Sau khi hủy  hoại  sắc  đẹp xong, cô  trở  lại chùa xin tu, lúc bấy giờ cô được nhận làm đệ tử.
Qua câu chuyện trên cho thấy sắc đẹp làm cản trở sự tu tập của chúng ta rất lớn, vì thế chúng ta là tu sĩ Phật giáo không nên trang điểm, phải   giữ   gìn  giới   luật   Thánh   Đức  Tự Nhiên không  trang  điểm  làm  đẹp này  nghiêm chỉnh.

Văn hóa Phật giáo truyền thống – tập 1

Có  ý  chí quyết  tâm  xa lìa  tâm  ái  dục  nên cô gái này đã diệt sắc đẹp của mình  tức là cô đã diệt tâm ái dục của mình,  nhờ đó  trên đường tu hành theo Phật giáo cô đã chứng quả Thiền Tông.
Như   vậy,   hiện   nay  đúng   theo   giới   luật Phật  như  quý  vị  đã  biết,  người  tu  sĩ  đạo  Phật phải  luôn  luôn  cạo  bỏ  râu  tóc,  ăn  mặc  áo  quần thô  xấu.  Đó  là  một  hình  thức  rất  cần  thiết  để xa lìa tâm ái dục và ác pháp.
Không  trang  điểm  làm  đẹp là  một  Thánh đức  tự  nhiên  lìa  xa tâm  ái  dục  mà  người  tu  sĩ cần nên học và cố gắng khắc kỷ mình để thực hiện  cho bằng  được  Thánh  hạnh  này.  Nhờ  đó con đường tu tập mới có hiệu quả hơn.
Kính  thưa các bạn đồng tu Phạm hạnh! Thánh  đức  tự  nhiên  xa lìa  tâm  ái  dục, các  bạn có giữ trọn hay không, đó  là  còn tùy ở   các bạn. Nếu  các  bạn  giữ  trọn  trước  mặt  cũng  như  sau lưng thì các bạn đã  tự biết mình  lìa xa tâm sắc dục. Xa lìa  tâm  sắc  dục rất  có  lợi cho các  bạn, nó giúp cho thân tâm của các bạn thanh tịnh, nhờ thế các bạn mới dễ  dàng tu tập thiền định mà không sợ lạc vào tà thiền.

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Nếu  Phạm  hạnh  này  không  giữ  trọn  vẹn được thì các  bạn  tu  hành  phí  công  vô  ích  mà
thôi.

Mỗi giới Đức Phạm Hạnh Thánh Sa Di là  hiện thân của  sự  giải  thoát  trong  Phật giáo.  Vì thế, Mười  Giới  Đức Thánh Sa Di  càng giữ  gìn  nghiêm  chỉnh  thì thân  tâm  càng  lúc càng thanh tịnh; thân tâm càng lúc càng thanh tịnh  thì đời sống  càng  đơn giản;  đời sống  càng đơn giản thì sự giải thoát gần kề. Sự giải thoát có  được là  nhờ  sống  đơn  giản,  tự  nhiên.  Cho nên đời sống đơn giản tự nhiên trước mặt cũng như sau lưng là xác định cụ thể cho người tu chứng. Người tu chứng hay không tu chứng là ở chỗ những giới  đức Thánh  này, chứ không phải ở   chỗ  ngồi  thiền  nhập  định 7, 8 ngày  hay  thị hiện  thần  thông,  phóng  hào  quang,  độn  thổ, tàng hình,  biến hóa, v.v..
Đối với Thánh hạnh không cần sửa sang trang  điểm làm  đẹp, mà  thân  tướng  lại  đẹp đẽ trang  nghiêm  một  cách  đơn  giản  tự  nhiên  thì đó  mới  thật  sự  là  Thánh  Đức  Hạnh Tự  Nhiên, đó  mới  thật  sự  là  cái  đẹp tự  nhiên của  một  vị Thánh Tăng, Thánh Ni.

Văn hóa Phật giáo truyền thống – tập 1

Thánh  đức  tự  nhiên  ly  ái  dục  là  để   cho người  tu  hành  có  một  dung  nghi  đẹp đẽ  hồn nhiên,  trong  sáng  rất  tự  nhiên.  Đó  là  vì  thân tâm thanh tịnh không còn ô  nhiễm nên không cần trang điểm làm đẹp theo kiểu nhân tạo thế
tục.

Nhìn  qua Phạm hạnh Thánh đức  tự  nhiên của một vị tu sĩ Phật giáo là chúng ta nhận biết vị  này  là  Thánh  Tăng  thật  hay  Thánh  Tăng
giả.

Thánh  Tăng  giả  thì trang  điểm ăn  mặc sang đẹp, xe cộ  lộng  lẫy,  cái  đẹp ấy  là  cái  đẹp nhân  tạo,  cái  đẹp nhân  tạo  là  cái  đẹp của  tâm dục  và  ác  pháp.  Cho  nên,  giới  luật  Phật  cấm trang  điểm  làm  đẹp giả  tạo  không  chân  thật. Làm  đẹp giả  tạo  không  chân  thật  có  hai  điều tội lỗi:
1- Tội lừa đảo người.

2- Tội thiếu  chân thật với mình.

Lừa đảo người bằng tướng tốt, ăn mặc sang đẹp. Ảnh hưởng Bà La Môn giáo cho rằng người tu  hành  phải  có  tướng  tốt,  cho các  vị  tu  sĩ  nào có  thân  tướng  mập  béo,  bệ  vệ  trong  bộ  y  áo sang  đẹp là  tướng  tốt,  là  tu  chứng  đạo,  theo Phật  giáo  chúng  tôi  nghĩ  rằng  thân  tướng  ăn

Trưởng lão Thích Thông Lạc

mặc  như  vậy  không  đúng  lắm,  vì  thân  tướng mập  béo,  trong  y áo  sang đẹp là  tướng  của  dục lạc.  Vẽ  vời đức  Phật  với  ba mươi hai  tướng tốt, tám  mươi vẻ  đẹp là  để  loè  mọi người  theo  kiểu kinh sách  Bà  La  Môn  thì chúng  tôi  nghĩ  rằng đức Phật có một thân hình quái dị, chứ không phải thân hình  của một con người.
Trang  điểm là  phương  cách  làm  đẹp giả tạo,  đó  là  thiếu  chân  thật  với  mình  với  người. Vì  thế  mà  Giới  Đức  Thánh  Tự  Nhiên  không trang điểm ra đời  để giúp chư Tăng, Ni sống tự nhiên mà có vẻ đẹp  đẽ hồn nhiên.
Tóm lại, một tu sĩ còn trang điểm làm đẹp là chứng tỏ tâm ly dục ly ác pháp chưa có. Điều quan  trọng  là  tâm  sắc  dục  chưa  lìa thì  con đường đạo khó thấy.
Nếu tu theo đạo Phật mà còn trang điểm làm đẹp là không thể tu theo đạo Phật được, đó là  một  điều  xác  định chắc  chắn  báo  trước  cho quý vị biết.
Muốn  tìm tu  giải  thoát  theo  đạo  Phật  thì Giới Đức Thánh Tự Nhiên phải chấp nhận thực hành. Sống nghiêm chỉnh không hề vi phạm thì Thánh  hạnh  này  mới  có  thể  hiện  rõ  trong  mọi oai nghi của quý vị.

Văn hóa Phật giáo truyền thống – tập 1

Thánh Đức Tự Nhiên của một cơ thể đã lìa tâm sắc dục thì rất thanh tịnh. Tâm sắc dục lìa xa được,  thì thân  tâm  của  quý  vị  mới  thật  sự thanh  tịnh.  Thân  tâm  có  thanh  tịnh  thì quý  vị mới  nhập  được chánh  định, còn  thân  tâm  chưa thanh  tịnh  mà  nhập  định thì chỉ  là  nhập  tà định. Do điều kiện này mà đức Phật chỉ dạy cho chúng  ta: “giới sanh định” là  vậy.  Cho  nên  một người  tu  mà  xem thường  giới  luật  thì người  ấy sẽ không bao giờ tu tập thấy được sự giải thoát của đạo Phật như thật.
Giới là pháp môn giúp cho tâm ly dục ly ác pháp,  còn  tà  định  là  pháp  môn  ức  chế  tâm khiến cho tâm không bao giờ ly  dục ly  ác pháp được. Cho nên, giới không tu tập nghiêm chỉnh thì oai  nghi  chánh  hạnh  không  bao giờ  có,  oai nghi  chánh  hạnh  không  có  mà  tu  tập  thiền định thì thiền định đó  không bao giờ có giải thoát.
Đạo Phật lấy giới luật làm khuôn pháp tu tập  hàng  đầu,  khiến  thân  tâm  thanh  tịnh,  oai nghi chánh hạnh rõ ràng, người người nhìn  vào đều kính  mến và tôn trọng, không ai mà không thừa nhận.
Tà  Giáo  ngoại  đạo  bỏ  giới  luật  lấy  ý  thức vô niệm làm tâm, cho tâm đó  là Phật tánh. Do

Trưởng lão Thích Thông Lạc

đó   tu  tập  bị  ức  chế  tâm,  rơi vào  định tưởng, khiến  cho người  tu  hành  không  biết  đường  tu tập  làm  chủ  sanh, già,  bệnh,  chết.  Lúc  bấy  giờ lại   còn  lạc  vào   mê   hồn  trận  của  tưởng  mà không  biết,  cứ  cho đó  là  định tướng  của  thiền định. Trong  sách  Thiền Quan Sách  Tấn  các  Tổ thuật lại công phu tu tập của mình rất là gian khổ. Ba, bốn chục năm mà chứng những trạng thái tưởng, thật là phí uổng công cả  một  đời tu
tập.

Người tu hành theo đạo Phật phải nhớ kỹ lời dạy này: ‚các pháp  ác  không  nên  làm  và nên  làm  các  pháp  thiện‛.  Đó  là  lời  dạy  về giới luật của Phật.
Người phạm giới là người làm các pháp ác, người nào không phạm giới là người làm các pháp  thiện.  Người  sống trong  thiện pháp  là người sống trong  Thánh hạnh.



à


 GIỚI   Đ  ỨC   SA    DI   THỨ    BÂY  :

KHƠNG CA HÁT VÀ NGHE CA HÁT

Không   ca   hát   và   nghe   ca   hát   là “THÁNH ĐỨC  TRẦM  LẶNG ĐỘC  CƯ”.  Người xuất  gia  cũng  như  người  tại  gia  cần  phải  học hiểu  và  sống  đúng  đức  hạnh  này  để  phòng  hộ mắt,  tai,  mũi,  miệng,  thân,  ý  của  mình.   Do
phòng  hộ  mắt,  tai,  mũi,  miệng,  thân,  ý  của
mình  nên  các  ác  pháp  không  sanh  khởi  được, nhờ đó tâm thanh thản, an lạc và vô sự.
Lời  ca  tiếng  hát  phát  ra  âm  thanh  lúc trầm,  lúc  bổng,  lúc  cao, lúc  thấp  khêu  gợi  thất tình lục  dục  trong  ta  sống  dậy,  khiến  cho tâm hồn  chúng  ta  rung  động  ngây  ngất  buồn  vui theo âm thanh du dương ảo não của tình yêu thương  lãng  mạn  giữa  trai  gái.  Giọng ca trầm hùng thúc dục tiến bước quân hành khiến cho thanh  niên  hăng  hái  lên  đường  xông  pha  vào trận  mạc,  trước  lằn  tên  mũi  đạn  mà  không  hề nao núng.
Lời ca tiếng  hát  có  lợi  nhưng  cũng  có  hại. Lợi là  trước  cảnh đất  nước bị  ngoại  xâm,  lời  ca

Trưởng lão Thích Thông Lạc

tiếng hát thúc dục thanh niên lên đường cứu nước;  hại  là  khiến  cho thanh  niên  nam  nữ  yêu thương lãng mạn đi đến những sự khổ đau tuyệt vọng,  gây  ra  nhiều  cái  chết  oan  uổng.  Phần nhiều những lời ca tiếng hát gợi lại những hình ảnh  quá  khứ  thương  đau, đánh  thức  dậy  thất tình lục  dục  trong  mỗi  con  người,  khiến  đời sống đã khổ lại còn khổ đau hơn. Cho nên, đức Phật thấy được những sự nguy hiểm này, vì thế Ngài  cấm  những  tu  sĩ  không  được nghe ca hát và tự mình  ca hát.
Những  người  tu  sĩ  Phật  giáo  vì  mục  đích giải  thoát  mọi sự  khổ  đau của  cuộc  đời  thì cần nên  tránh  xa  ca hát  và  nghe  ca hát.  Tại  sao
vậy?

Như ở  trên chúng tôi đã nói: Phật giáo cho rằng  lời   ca  tiếng  hát   thường  khêu  gợi   lòng thương nhớ khổ đau trong chúng ta. Muốn thoát sự  đau khổ,  cho nên  đạo  Phật  không  cho tu  sĩ nghe ca hát  hoặc  tự  ca hát.  Đó  là  trách  nhiệm và bổn phận của mỗi người tu sĩ đệ tử của đức Phật  phải thấy. Không  xuất  gia thì thôi  mà  đã xuất gia thì phải thấy trách nhiệm và bổn phận này.  Nếu  một  tu  sĩ  còn  nghe  ca hát  hay  tự  ca hát  thì đã  đánh  mất  hết  oai  nghi  Thánh  Hạnh trầm lặng độc cư của mình,  của người tu sĩ Phật giáo.  Cũng  vì  thế  mà  mất  hết  ý  nghĩa  sự  giải

Văn hóa Phật giáo truyền thống – tập 1

thoát của đạo Phật. Người tu sĩ còn nghe ca hát và tự ca hát thì đi tu để  làm gì? Mục đích đi tu của  đạo  Phật  là  ly dục  ly  ác  pháp.  Ca hát  hay nghe ca hát làø nuôi  dưỡng tâm dục, là còn  nằm trong  môi  trường  lục  dục  và  ác  pháp  của  thế
gian.

Vì  nghe ca hát  hay tự  ca hát  là  làm  sống lại  thất  tình lục dục trong  thân  tâm  của  chúng ta như chúng tôi đã  nói ở   trên. Người  tu sĩ  đạo Phật  hằng  mong diệt  thất  tình lục dục để  được giải  thoát,  thì cớ  chi  lại  còn  ham  thích  ca hát hoặc nghe ca hát, để  làm sống lại thất tình lục dục  thì sự  tu  tâïp  biết  chừng  nào  mới  hết  tâm lậu hoặc!
Người nghe ca hát hay tự ca hát là gợi lên lòng thương nhớ khổ đau trong quá khứ, làm sống  lại  những  ức  niệm  gì đã  đi qua. Đức  Phật đã   dạy:  ‚Quá   khứ   không   truy  tìm,  vị   lai không  ước  vọng‛. Nghe ca hát và tự ca hát là truy tìm nỗi đau thương của quá khứ và nuôi hy vọng ở  tương lai. Và như vậy thì làm sao tu tập giải thoát khổ đau cho được.  Lời ca tiếng hát, ngâm vịnh thơ văn phản ảnh được tâm lý ái dục của  con người.  Vì  thế,  Sở  Bá  Vương  Hạng Võ thất trận là do tiếng sáo, tiếng tiêu của Tiêu Hà theo kế hoạch tâm lý chiến của Trương Lương khiến cho quân lính  của Sở Bá Vương nhớ nhà,

Trưởng lão Thích Thông Lạc

cha mẹ và vợ con nên đồng nhau bỏ trốn về. Có đúng như vậy không các bạn?
Chúng  ta  hãy  lắng  nghe  những  câu  thơ, lời  ca khêu  gợi  lên  lòng  thương  nhớ  sầu  khổ, như của nhà thơ Huy Cận viết:
“Sóng gợi trường giang buồn điệp điệp. Con thuyền xuôi mái nước song song Thuyền về bến cũ sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng?”

Một nhà thơ Trung Hoa, Lư Thuật viết:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu” Tản Đà dịch:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” Đoàn Thị Điểm viết:
“Nước trong chảy lòng phiền không rữa

Cỏ xanh tươi dạ nhớ chẳng khuây…”

Lời ca tiếng hát của Y Vân:

“Lòng  mẹ  bao  la  như biển  Thái Bình  dạt dào…”
Lời  ca tiếng  hát  của  Lưu Hữu  Phước  thúc dục thanh niên trí thức lên đường cứu nước:

Văn hóa Phật giáo truyền thống – tập 1




núi.

“Này  sinh viên  ơi!  Đứng  lên  đáp  đền  sông


Đồng  lòng  cùng  đi,  đi,  đi mở  đường  khai

lối.  Vì  non  sông  nước  xưa,  truyền  muôn  năm
chớ quên...”

Đó là những văn, thơ, ngâm vịnh, ca hát khiến cho lòng người tê tái nhớ thương khổ đau.
Thương  nhớ  là  một  pháp  ác,  là  một  pháp đau khổ.  Lời  ca tiếng  hát  ngâm  vịnh thơ  văn gợi lên lòng thương  nhớ sầu khổ của một  người con nhớ mẹ (Lòng mẹ) của một người vợ nhớ thương chồng đang chinh  chiến ngoài biên ải xa (Chinh  Phụ Ngâm), của một tình yêu quê hương (Tiếng Gọi Sinh Viên).
Lời  ca tiếng  hát,  thơ  văn  ngâm  vịnh gợi lên  tình yêu  thương  trai  gái  (sắc  dục)  tình yêu thương  cha mẹ  (ái  kiết  sử)  tình yêu  quê  hương tổ quốc (ái kiết sử).
Tất những sự yêu thương này nằm ở  trong thất  tình lục  dục.  Như  chúng  ta  đã   biết  loài người thường chịu nhiều khổ đau là do thất tình lục  dục  tạo  nên.  Thế  mà  người  ta  thường  tìm mọi  cách  làm  sống  lại  nó  để   mà  khổ,  để   mà
đau.

Lòng thương yêu trong thất tình lục dục là tình yêu  thương  hạn  hẹp  trong  tình cảm  cá

Trưởng lão Thích Thông Lạc

nhân,  tình thương  yêu  ấy  thường  làm  khổ  cho mình,  cho người khác.
Nỗi  đau của  thất  tình lục  dục  khiến  cho trai gái đi đến tuyệt vọng phải tự tử, khiến cho con giết  cha, cha giết  con, mẹ  giết  con, chồng giết vợ, vợ giết chồng, anh giết em, em giết anh
v.v..

Nỗi  đau ấy  thúc  dục chúng  ta  xả  thân  vào chỗ  chết  mà  không  hề  biết   sợ  hãi  và   cũng không thấy trách nhiệm bổn phận đạo đức  làm người của mình đối với mình, của mình đối với người khác, v.v..
Đạo Phật muốn cho con người thoát khổ, nên  phải  vượt  thoát  ra khỏi  thất  tình lục  dục. Đối  với  đạo  Phật  thất  tình lục  dục là  một  loại tình yêu thương hạn hẹp, nhỏ mọn, ích kỷ phải được thay  thế  bằng  một  loại  tình yêu  thương rộng lớn. Tình  yêu thương rộng lớn đó  là  ‚tâm từ,  bi, hỷ,  xả‛.  Tâm  từ,  bi,  hỷ,  xả  là  lòng  yêu thương rộng lớn vô bờ bến, vì thế nó không bao giờ  làm  khổ  mình,   khổ  người  và  khổ  chúng sanh. Nhờ  có  tâm  này  được thay  thế  thì chúng ta mới thoát ra khỏi thất tình lục dục.
Nếu mình  thương yêu mình  sao lại nghe ca hát và tự ca hát để gợi lên lòng nhớ thương, sầu khổ.

Văn hóa Phật giáo truyền thống – tập 1

Người đời không hiểu nên cứ ngỡ mượn lời ca tiếng  hát  để  giải  sầu  hay  giải  trí.  Thật  sự giải sầu hay giải trí như vậy lại làm cho tâm tư sầu khổ thêm, trí óc mệt nhọc, căng thẳng hơn.
Lời  ca tiếng  hát  chỉ  giúp  cho người  làm việc  đầu  óc   quá  căng  thẳng  được  thư  giãn  mà
thôi.

Mình  thương mình  thì không nên làm khổ mình.  Phải không các bạn?
Nghe ca hát  và  tự  ca hát  cũng tự làm  khổ mình,  các bạn có hiểu không?
Cho  nên  muốn  không  làm  khổ  mình  thì các bạn không nên nghe ca hát và ca hát.
Bởi  vì  nghe  ca hát  cũng  làm  cho các  bạn mất thì giờ rất nhiều.
Giải  trí nghỉ  ngơi  mà  lại  bắt  đầu  óc  lắng nghe  âm  thanh  khiến  cho thần  kinh mỏi  mệt. Như vậy giải trí nghỉ ngơi có đúng không?
Như vậy thương yêu  mình  sao lại làm khổ mình?
Mượn   lời ca tiếng  hát  để  quên  đi  sự  sầu khổ, để  giải trí nghỉ ngơi thì không đúng. Đó là một hình  thức tránh né trốn chạy để  ức chế và đè nén tâm mình.

Trưởng lão Thích Thông Lạc

Chúng tôi xin đem một ví dụ giải sầu khác: Cũng như người vì quá buồn khổ lại mượn chén rượu  để   giải  sầu,  rượu  là  một  chất  độc  kích thích khiến cho thần kinh hưng phấn, nói năng cử chỉ giống như người điên, người mất trí... Những người say rượu như vậy họ đâu có sáng suốt  thấy  mình   say  rượu,  họ   cảm  thấy  như mượn  chén  rượu  để  nói  lên  lòng  căm  tức,  lòng khổ đau của mình  để  cho hả lòng buồn giận, tức là giải sầu. Nhưng họ có biết đâu chính họ đã bị tâm  họ  lừa  dối  họ.  Họ đang say nhưng  họ  đâu biết họ đang say. Sự thật là họ đang say rượu, thần  kinh bị  hưng  phấn,  họ  không  tự  làm  chủ họ được nữa, họ nghĩ rằng uống rượu say là sẽ quên  sầu  khổ,  nhưng  không  ngờ  họ  đã  làm  cho họ  sầu  khổ  thêm,  chứ  nào  đâu  phải  mượn  rượu để giải sầu.
Thưa  các  bạn!  Lời ca tiếng  hát  cũng  như vậy,  chỉ  làm  vui  dạ  những  người  không  biết sống  cho mình.  Nghe  ca hát  và  tự  ca hát  là sống theo ngoại cảnh thất tình lục dục, thuộc về ảo ảnh, hư tưởng của những sự việc gì đã qua và của những sự việc gì chưa đến, họ tưởng là giải khổ lại chồng thêm khổ cho họ.
Ca hát  là  sự  khêu  gợi  lòng đau khổ,  làm mất sự an tịnh trầm lặng của tâm hồn nên đức

Văn hóa Phật giáo truyền thống – tập 1


Phật  cấm những hàng đệ  tử của  mình:  ‚không ca hát và nghe ca hát‛.
Chúng  ta  cũng  nên  biết:  Một  vị  Thánh Tăng  đờn  ca xướng  hát  ngâm  vịnh, hoặc  tán tụng ê,  a giọng  cao giọng thấp  để  ru hồn  người vào  cõi  tưởng  thì điều  này  đức  Phật  đã  không chấp nhận từ lâu.
Kinh  Sonadanda  thuộc  Trường   Bộ   Kinh tạng  kinh  Nikaya (Nguyên  Thủy)  có  nêu  lên năm  đức  tánh  của  một  tu  sĩ  Bà  La  Môn.  Năm đức tánh đó là:
1-  Thọ   sanh  huyết   thống   7  đời   Bà   La
Môn.

2-  Chú  thuật,  phúng  tụng,  thông  hiểu  ba tập Vệ Đa, danh từ, nghĩa lý và nghi lễ... phải thông suốt.
3-  Đẹp  Trai,  tướng  hảo,  (32 tướng  tốt  80 vẻ đẹp).
4-  Trí  tuệ.

5-  Giới luật.

Đức Phật đã loại bỏ ba tánh đức ở trên mà chỉ còn chấp nhận có 2 đức tánh ở  dưới:
1-  Trí  tuệ.

2-  Giới luật.



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!