Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRUYỀN THỐNG TẬP 1-18


nhãn  thức  này  không  phải  là  của  ta,  là  ta,  là bản ngã của ta. Sự thật nhãn thức này chỉ là do các duyên nhân quả tạo thành theo nghiệp lực của nó làm nên như trên đã  nói. Đức Phật dạy:
‚Thân người do thừa tự của nghiệp  mà có‛, chứ nào phải đâu do một linh hồn hay một thần thức đi tái sanh luân hồi mà có.

Trong sắc uẩn gồm có sáu thức:

1/  Nhãn thức

2/  Nhĩ thức

3/  Tỷ thức

4/  Thiệt thức

5/  Thân thức

7/  Ý thức

Trong thân người nào cũng có đủ sáu thức này,  nhóm  sáu  thức  này  có  chung một  cái  tên gọi là sắc thức.

Nhóm sáu thức này còn gọi là sáu tên gác cửa thành. Sáu tên gác cửa thành này nó có quyền hạn rất lớn, muốn cho ai vào thành thì mới  được vào,  còn  không  muốn  cho ai  vào  thì không  ai  được  vào.  Do  có  quyền  hạn  lớùn  như vậy  nên  đức  Phật  dạy  chúng  ta  biết  cách  sử dụng sáu  tên  gác  cửa  thành  này  để  ngăn  cản


không  cho kẻ  ác  vào  thành.  Nhờ  đó  mà  thành trì này được bình an, vô sự.

Chúng  ta  đọc lại  đoạn kinh giới hành  thứ
23, 24 tức là học về Giới hành nhãn căn và Giới hành  sắc  trần;  học  về  Giới  hành  nhãn  căn  tức là học về bản đồ  của sáu cửa thành; học về Giới hành  sắc  trần  là  học  về  sáu  tên  giặc  ở    bên ngoài thường hay vào thành khủng bố và xâm chiếm  thành.  Còn  Giới  hành  thứ  25 là  học  về sáu người lính  giữ thành tức là sáu thức.

Ở  những bài kinh trên đây cho chúng ta thấy biết rất rõ ràng: Thân chúng ta là thành; sáu căn là sáu cửa thành; sáu trần là sáu tên giặc;  sáu  thức  là  sáu  người  lính  gác  thành.  Đó là  một  kịch trường  của  nhân  quả  tạo  ra  để chúng   ta   diễn   tuồng   thất   tình  lục   dục,   chứ chẳng có gì là chân thật là của chúng ta cả. Do vô minh  mà  chúng ta lầm chấp  là  có  thật. Một trò ảo ảnh của nhân quả, thế mà loài người trên hành  tinh này  có  mấy  ai  biết  rõ  ràng.  Phải không các bạn?

Đây  là  vũ  trụ  quan của  Phật  giáo  qua ba giới  tượng  trưng  này:  “nhãn  sắc  giới‛  là  con mắt  tiếp  xúc  với  “sắc  trần giới”.  Sắc  trần  là hình  sắc,  hình  tướng  của  vạn  vật,  khi căn  trần tiếp  xúc  nhau thì sinh  ra cảm  thọ  mới  sinh  ra


‚sắc  thức giới‛.  Có sáu thức mới có ái dục. Do căn,  trần,  thức  họp  nhau,  nên  gọi  là  lục  nhập. Do lục nhập mà thế giới quan của Phật giáo mới hiện bày cả một sự khổ đau.

Cho  nên  đức   Phật  dạy:  ‚sáu   căn,   sáu trần, sáu thức, là vô thường, là khổ là biến hoại, chúng không phải là ta,  là của ta,  là bản  ngã  của  ta‛. Do sự  thấu  hiểu  này  ta  mới biết rõ, đây là một trò ảo kịch của nhân quả. Do biết chúng  là  trò  ảo  kịch, chúng  ta  không  chấp nhận. Vì thế, đối với chúng ta, chúng làm gì ta vẫn thản nhiên bất  động. Ví như con mắt nhìn thấy  mọi  vật,  biết  rõ  mọi  vật  mà  không  sinh tâm tham đắm ham muốn mọi vật. Đó là cách thức yểm ly con mắt, yểm ly các sắc, yểm ly các thức,  yểm  ly  các  xúc.  Muốn  thấy  rõ  sự  yểm  ly, xin  các bạn hãy đọc lại đoạn kinh Giáo Giới La Hầu La thì rõ: ‚ Này La Hầu La, do thấy vậy vị đa văn Thánh đệ tử yểm ly con mắt, yểm ly các sắc, yểm ly nhãn thức, yểm ly nhãn xúc,  do duyên  nhãn  xúc này được  khởi  lên thọ, tưởng,  hành, thức. Vị ấy  yểm  ly  luôn phóng khởi lên‛.


Do lục nhập này ta không chấp nhận; ta không chấp nhận tức là yểm ly. Do sự yểm ly ta ly  tham,  ly  sân,  ly  si; do ly  tham  ly  sân,  ly  si


mà  ta  được giải  thoát  khi tâm  ly  sạch  tham, sân,  si.  Tự trong  tâm  sạch  tham,  sân,  si  là thanh  tịnh,  là  ta  đã  có  sự  hiểu  biết rằng  ta  đã tu tập xong.

Trong   sự   giải  thoát  là  có  sự   hiểu  biết:
‚sanh  đã   tận   phạm   hạnh   đã   thành,   các việc  nên  làm  đã  làm,  không còn  trở  lui trong  trạng thái  này nữa‛.  Đến  đây  chấm dứt   những   bài   kinh  Giáo   Giới   La   Hầu   La. Nhưng nó là những giới luật căn bản nhất của người mới vào tu theo Phật giáo mà kết quả không thua kém bất cứ những vị Trưởng lão nào trong Phật giáo.

Nếu người mới vào tu theo Phật giáo mà không  được hướng  dẫn  tu  tập  theo  giáo  pháp giới  luật  căn  bản  này  thì không  bao giờ  tìm thấy sự giải thoát chân thật.

Dựa vào những lời dạy giới luật của đức Phật  cho người  Sa Di  đầu  tiên  trong  Phật  giáo (La Hầu La) chúng tôi biên soạn thành bộ Giới Hành  Đức  Thánh  Sa Di  để   những  người  mới bước  chân  vào  đạo Phật,  ngay từ  phút  đầu  tiên tu tập vẫn tìm thấy sự giải thoát thật sự.

Do  bộ  sách  này  được  truyền  thừa  2548 năm từ đất nước Ấn Độ. Khi truyền sang đến nước Việt Nam trên 2000 năm văn hiến của đất


nước  này,  hôm  nay  được chúng  tôi  biên  soạn thành  một  sách  đạo  đức  Việt  Nam  lấy  tên  là VĂN  HÓA  ĐẠO  ĐỨC  TRUYỀN THỐNG  VIỆT  NAM TẬP I.



à


SO SÁNH

GIỮA BỔN VÀ GIỚI KINH


Bắt đầu học, tu tập và muốn đạt được một   đời   sống    giới    luật   khẩu   hành   nghiệp nghiêm chỉnh thì phải thông hiểu: giới đức, giới hạnh  và  giới  hành.  Vậy  giới  đức,  giới  hạnh  và
giới hành là gì?

Giới  đức  khẩu  hành  nghiệp  là  những  lời dạy đạo đức về đời sống của con người tức là Chánh ngữ nghiệp.

Giới hạnh khẩu hành nghiệp là những lời dạy  về  Phạm  hạnh  tức  là  oai  nghi  tế  hạnh thường thể hiện qua những khẩu hành nghiệp như:  nói,  nín,   tiếp  giao  với   mọi  người,   v.v.. Những  oai  nghi  tế  hạnh  như  vậy  được gọi  là Chánh khẩu nghiệp.

Như   các   bạn   đã    biết   trong   tạng   kinh Nikaya,   hầu  hết  những  bài  kinh Phật  thuyết đều  nói  về  cách thức  ngăn  ngừa  và  diệt trừ  các ác  pháp  để   luôn  luôn  giữ  gìn  và  tăng  trưởng thiện  pháp  tức  là  giữ  gìn  tâm  thanh  thản,  an lạc  và  vô  sự.  Đối  với  Phật  Giáo,  thiện  pháp  là giới  luật  của  Phật,  cho nên  khi dạy  ông  Anan


hay  dạy  ông  La  Hầu  La...,  những  bài  kinh ấy đều  có  tên  là  Giáo  giới  Anan  hay  giáo  giới  La Hầu  La...;    những   bài   pháp   ấy   gọi   là   “Giới kinh‛. Còn một vài bài kinh khác chỉ dạy về sự sai lầm của giáo pháp Bà La Môn nên nó không được xem là giới luật mà thôi.

Như  các  bạn đã  đọc Mười  Giới  Đức  Thánh Sa Di, do từ bộ giới bổn Patimoka tôi biên soạn ra, tuy  biết rằng  bộ  giới bổn  này  là  của  các  Tổ biên soạn, nhưng tôi thấy các Tổ dựa  vào những giới kinh Phạm Võng  nên  không  có  gì sai, chỉ sai  một  điều  là  biến  giới  đức,  giới  hạnh, giới  hành thành bộ  Giới  cấm.  Bộ  Giới  cấm Ba La Mộc Xoa Đề này đã  làm mất hết ý nghĩa tự  giác,  tự  nguyện  sống  đời  sống  Phạm  hạnh của Phật giáo. Bởi vì giới cấm là bắt buộc người khác phải thi hành không được vi phạm hơn là để   mọi  người  tự  nguyện,  tự  giác  chấp  nhận không phạm  giới là  vì lý do giải thoát mọi khổ ách cho chính mình.

Phật  giáo  ra đời  vì lợi ích cho loài  người, nên Phật giáo không bao giờ dụ  dỗ và cũng không  bao giờ  bắt  buộc  một  ai  giữ  gìn cái  này, tu tập cái kia.  Bạn đến với đạo Phật là đến với sự  giải  thoát  an  vui  cho  chính  bạn,  chứ  đạo Phật  không  có  mong cầu  bạn  đến  với  đạo Phật để   mang  lợi  ích  gì  cho  đạo  Phật.  Đạo  Phật


không  cần  chùa  to,  Phật  lớn,  không  cần  cúng bái tụng niệm, v.v.. chỉ cần người đến với đạo Phật là không làm khổ mình, không làm khổ người và không làm khổ chúng sanh.

Cho nên, bộ giới cấm này thay vì là bộ giới đức, giới hạnh, giới hành, để  trở thành một nếp sống   có  văn  hóa,  có  đạo   đức  nhân  bản  làm người, nhưng  các  Tổ  không  hiểu ý  Phật  nên đã biến bộ Giới luật này thành pháp luật của một quốc gia để  trừng trị những phạm nhân. Vì thế, khiến  cho tu  sĩ  Phật  giáo  bị  ức  chế  thân  tâm trong giới cấm. Cho nên trong những tập Đường Về Xứ Phật tôi có nói: ‚Từ khi có giới cấm ra đời thì tu sĩ càng  phạm  giới  nhiều  hơn‛ là lý do này.

Tại sao khi có giới luật tu sĩ lại phạm giới nhiều hơn? Tại vì do giới cấm ức chế tâm tham dục, trong khi tu sĩ chưa có pháp tu tập ly tham dục. Do vì thế tu sĩ  lén lút  làm những điều phi pháp, không đúng Phạm  hạnh, thường vi phạm vào giới cấm. Khi đã vi phạm thì họ rất xấu hổ với  những  người  khác,  với  chính  lương tâm  họ, vì  thế,  họ  tìm cách  bẻ  vụn  giới  ra để  vi phạm mà không bị lương tâm cắn rứt và tránh khỏi bị mọi người  chỉ  trích.  Xin  các  bạn  đọc  một  kinh giới do các  Tổ  khéo  luận  để  bẻ  vụn  giới ăn  phi thời:  ‚Chư thiên  ăn  trước  giờ  ngọ,  Phật  ăn


giờ  ngọ,  chúng  sanh  ăn  sau  giờ  ngọ,  ngạ quỷ  ăn  đêm‛.  Đó  là một đoạn giới bổn mà các Tổ  sử  dụng nó  như một  chiếc  bùa  hộ  mạng  đối với nam, nữ Phật tử.

Giới cấm uống rượu thì lại dạy rằng: ‚Cấm uống rượu say, chứ không  cấm uống rượu‛. Cho nên tu sĩ hiện giờ ăn uống phi thời, lại còn nghiện ngập thuốc lá, rượu, cà phê, trà, v.v..

Đạo Phật là đạo xả tâm, nhưng giới cấm là một phương pháp ức chế tâm, thành thử giới bổn đi ngược lại giới kinh hay nói cách khác là đi ngược lại giáo pháp của Phật khiến cho những người tu học theo Phật giáo không tìm thấy sự giải thoát, mà càng tu lại càng khổ đau hơn.  Do thế  hiện  giờ  tuy  có  giới  bổn  mà  tu  sĩ thì phạm giới bẻ vụn giới tan nát; còn giới đức, giới  hạnh,  giới   hành  thì  chẳng  ai  biết  đến. Trong  khi ấy  đức  Phật  dạy La  Hầu  La  đầy  đủ các  giới,  từ  giới  cấm  mà  không  cấm,  đến  giới đức,  giới  hạnh  và  cuối  cùng  là  giới  hành.  Như vậy tính ra giới luật của người Sa di mới vào tu phải  tu  học  104 giới  cộng  thêm  100 giới chúng học nữa là 204 giới, chứ không phải chỉ có thập giới Sa Di như các Tổ đã dạy.

Sau khi tu học xong bộ giới luật này, chúng tôi sẽ biên soạn tiếp bộ ‚Giới  Hạnh  Oai Nghi


Thánh  Sa Di‛,  giúp  những  ai  mới  bước  chân vào đạo Phật, để  có những oai nghi tế hạnh của một bậc Thánh đệ tử Phật.






HẾT PHẦN HAI



MỤC LỤC PHẦN I


1- Phần I       5

2- Giới thiệu Mười Giới Đức Sadi           6

3- Lời nói đầu          7

4- Lời bạt      17

5- Văn hóa mười giới  đức Sadi 23

6- Giới Đức Thánh Sa Di thứ nhất          24

7- Giới Đức Thánh Sa Di thứ hai 38

8- Giới Đức Thánh Sa Di thứ ba  48

9- Giới Đức Thánh Sa Di thứ tư 60

10- Giới Đức Thánh Sa Di thứ năm       71

11- Giới Đức Thánh Sa Di thứ sáu         81

12- Giới Đức Thánh Sa Di thứ bảy         92

13- Giới Đức Thánh Sa Di thứ tám        107

14- Giới Đức Thánh Sa Di thứ chín        116

15- Giới Đức Thánh Sa Di thứ mười      128

16- Tổng quát mười giới 137

à


MỤC LỤC PHẦN II


1- Phần II      159

2- Lời nói đầu          160

3- Tiểu sử La Hầu La          165

4- Lời giới thiệu lịch sử Sadi đầu tiên    166

5- La Hầu La             167

6- Cậu bé hạnh phúc         167

7- Cậu bé không biết mặt cha     169

8- Thầy Sa Di đầu tiên       173

9- Giáo giới La Hầu La       176

10- Thầy Sa Di có thể ở  chung   179

11- Đức nhẫn nhục            182

12- Lịch trình chứng đạo             187

13- Nhập diệt          189

14- 25 Giới hành Thánh Sa Di     193

15- Giới thiệu giới bộ giới hành Sadi    194

16- Giới hành thứ nhất     198

17- Giới hành thứ hai        207

18- Giới hành thứ ba         212

Trưởng lão Thích Thông Lạc

19- Giới hành thứ tư         215

20- Giới hành thứ năm     236

21- Giới hành thứ sáu       253

22- Giới hành thứ bảy      258

23- Giới hành thứ tám      261

24- Giới hành thứ chín     263

25- Giới hành thứ mười   266

26- Giới hành thứ mười một      271

27- Giới hành thứ mười hai        275

28- Giới hành thứ mười ba         277

29- Giới hành thứ mười bốn       280

30- Giới hành thứ mười lăm       283

31- Giới hành thứ mười sáu        286

32- Giới hành thứ mười bảy       291

33- Giới hành thứ mười tám       296

34- Giới hành thứ mười chín      300

35- Giới hành thứ hai mươi        304

36- Giới hành thứ hai mươi một            310

37- Giới hành thứ hai mươi hai 313

38- Giới hành thứ hai mươi ba   332

Văn hóa Phật giáo truyền thống – tập 1

39- Giới hành thứ hai mười bốn            335

40- Giới hành thứ hai mười lăm            339

41- So sánh giữa giới bổn và giới kinh             346

42- Mục lục phần I             351

43- Mục lục phần II           352



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!