Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

pháp tu của phật - tứ vô lượng tâm 4


No lòng như chúng con, Ðể rồi quyết chí tu, Giải tr tâm ác độc,
Tăng trưởng hạnh từ bi, Thương xót khắp quần sanh, Thể hiện pháp thiền định,
Ra khỏi nhà sanh tử, Làm chủ đường luân hồi, Báo đáp bốn trọng ân, Gìn giữ ngôi Tam Bảo Cửu tr mãi muôn đời.

NAM MÔ PHẬT BN THÍCH CA MÂU NI.



Sau khi thầm đọc lời ước nguyện kính dâng lên lòng thành kính biết ơn của mình, người tu sĩ ăn:

1. Miếng cơm thứ nhất, ước nguyện: LY DC, NGĂN ÁC, DIT ÁC PHÁP.

2. Miếng cơm th hai, ước nguyện: SANH THIN, NG TRƯỞNG THIN PHÁP.

3. Miếng cơm th ba, ước nguyện: TT CẢ CHÚNG SANH ÐU LY DỤC, LY ÁC PHÁP, KHÔNG LÀM KH MÌNH, KH NGƯI”.

Sau khi đọc xong lời ước nguyện, người tu sĩ bắt đầu giữ gìn ăn uống trong s im lặng.



PHÁP TU... THI KA..  TỨ VÔ NG..  TỨ BẤT HOI ..
 
.                            .                         .


Ước nguyện sau khi th thực




S
 
au khi thọ thc uống nước xong, người tu sĩ chắp tay lên, thầm đc lời ước nguyện biết
ơn những đàn na thí chủ đã cúng dường tứ s nuôi thân cho mình:

Nguyện thọ bữa cơm y, Chúng con mãi nhớ ơn Người nông phu kkhổ, Kẻ dệt cửi nhc nhằn, Giọt mồ hôi nước mắt Làm ra của cúng dường.

Người đàn na thí chủ Vì Phật pháp trường tồn Chẳng nề công khó khổ
Kính ngưỡng cúng dâng n.

Chúng con nguyện giữ gìn, Chẳng dám phung phí phạm, Ngày một bữa nuôi thân, Chẳng dám ăn phi thời,
Vì phi thời phí phạm
Như ăn thịt con mình.

Chúng con nguyện hết sc

62



Năng nổ siêng tu hành, Giải thoát thân tâm mình Ra khỏi nhà sanh tử,
Đền đáp ơn chư Phật, Ơn sanh thành dưỡng dục, Ơn đàn na thí ch.

Chúng con cũng nguyện cho
Kẻ còn người đã mất Đều đưc hưởng Phật pháp, Tâm ly dc, ly ác,
Không làm khổ mình, người.

NAM MÔ PHẬT BN THÍCH CA MÂU NI.


Xin quí vị tìm đc Ðường Về Xứ Phật, từ tập 1 đến tập 10, quí vị s những thâm ý đc ác của Bà La Môn quyết tâm diệt sạch Phật giáo trên hành tinh này và những kiến giải sai lệch của các nhà học gi xưa và nay, danh lợi đã biến Phật giáo thành một giáo bị thế tục hóa.




HT



PHÁP TU..  THI KHÓA .. TỨ NG..  TỨ BẤT HOI...
 
64
 
.                     .                              .



Trưởng Lão TCH THÔNG LC
 














Trau Dồi

TỨ NG TÂM



PHÁP TU... THI KA..  TỨ VÔ NG..  TỨ BẤT HOI ..
 
66
 
.                            .                         .



Trưởng Lão TCH THÔNG LC
 










 
L ỜI NÓI ĐU












T
 
rưc đây, chúng i đã ging  về T
Vô Lưng Tâm, nhưng chưa có nêu
pp hành rõ rt. Bây giờ chúng tôi sẽ trình bày nhng pháp hành c th, cũng giống như sau khi có được địa danh,  bây  giờ ta ly đa ch rõ ràng để đi đến i đến chn.

Tâm ta vốn đy p tham, sân, si, không phi hàng  ngày  c i diệt tham, n, si mà nó hết đâu Pht nói dùng tâm từ để diệt tâm sân, nhưng tâm chưa có t thì làm sao diệt được sân? Vy làm thế nào  để trau dồi tâm t? Phi trau



dồi, tp sống với tâm như tâm Pht (rộng ln b bến), phi tp dt ác th hiện tình thương rộng ln. Thí dụ khi ngưi chi ta, liệu ta có thương h tha th cho h được không?  Hu hết chúng ta đều nh li Pht dy ly tâm từ đdiệt lòng sân hn,  nhưng có my ai làm đưc? Và làm thế nào để th hiện tâm t bn?

Tu là phi thc tp, rèn luyện tng chút mới có được từ, bi, hỷ, x. Nếu Thy nói các con nghe  chơi,  chng thc tp   c thì tht là ung công, mệt sức, mt thì giờ ích. Khi vào đo Pht trước tiên chúng ta nh là phi thông hiểu. Sau  khi thông hiểu thì ta  phi  trau dồi (nhìn vào đa ch để mà đi).

Thế nào là T Vô Lưng Tâm?

T là bốn, Vô lưng Tâm là tâm rộng ln mênh mông, ph trùm  tất c chúng sanh, không th  nào suy  lưng,  tính toán  đưc. Tâm  này thoát ra khỏi sự ràng buộc dây r của mọi tình  cm, thương ghét, giận  hờn, t hiềm, kiêu căng, nghi ngờ, ngã mn của phàm phu,  phá vỡ mọi tà kiến, thân kiến, chp kiến. Càng trau dồi


Trưởng Lão TCH THÔNG LC

tâm thì càng rộng lớn và s hiểu biết của ta càng phát triển.  T đó ta mới thc hiện tâm vô ngã. Nếu không có bốn tâm t, bi, hỉ, x thì ta khó  thc hiện  được tâm   ngã. Vô lượng tâm còn có nghĩa là đng m, là tâm bình đng (xem người và vt như nhau). Tâm này t nhiên, không  so đo, cao thấp,  hơn m, ph biến, ban ri khp mọi nơi, mọi chỗ, không giới hn. Do trau dồi tâm bình đng này mà làm lợi ích cho lượng chúng sanh thoát khổ. Tâm này có công năng mang li cho chúng sanh lượng phước báo,  nghĩa  là  không  bao giờ làm  phiền lòng ai. Biết rng đời ai cũng có cái khổ, cái khó khăn, nên ta cn phi thường xuyên áp dng tâm bi. Thí d khi có một người tức giận ta, ta hiểu  là  người  y  đang kh (bởi   tâm  bình thường đâu có đau khổ). Khi thc hiện tâm bi là thc hiện ch đau khổ,  tai nn ca người. Nếu thc hiện  được tâm t thì ta có th đem li lợi ích cho chúng sanh trong nước và các nước khác,  ta sẽ sống an vui, không có chiến tranh, đau kh.

Vô lưng phi hiểu qua năm trưng hợp sau đây:



1 - V ô  l ư n g  n h â n  l à n h : đem li nhân lành cho mọi người. Thí dụ khi người ta chi mình thì mình không gin mà còn năn nỉ để họ mát d, không chi na.  Đó là ta thông cảm và giúp  đỡ họ.

2 - V ô l ư n g q u  đ p : luôn luôn đem đến sự tốt đp, không  phiền toái, khiến cho chúng sanh nào cũng được an lành.

3 - V ô  l ư n g  c h ú n g  s a n h : mang li lơị ích cho rt nhiều chúng sanh. Thí dụ trong y áo ca chúng ta có đy kiến. Học tp tâm t thì ta không nên đp gi mnh khiến cho chúng có thb thương ch  và chết mt. Vì mưa gió cho nên chúng mới chạy vào nhà tìm nơi trú n. Nếu ta không muốn cho chúng vào thì phi ngăn chn từ đu. Bây giờ đy trong nhà ta quét đổ hết ra ngoài mưa, hoc đem đốt đi thì tội cùng.

4 - V ô  l ư n g  t h ế  g i i : c thế giới trùng trùng, điệp đip (không gian).

5 - V ô  l ư n g  đ i k i ế p : đời đời kiếp kiếp được an lành (thời gian).



Trưởng Lão TCH THÔNG LC
 

THÀNH PHẦN HÀNH TƯNG
CỦA TỨ LƯỢNG TÂM



 
Thành  phần  ca  tứ  lượng tâm  là  T vô lượng, Bi lượng, Hỷ lượng Xả lượng.










I- TỪ VÔ NG









T
 
lượng là lòng mến thương cùng, vô tận của chúng ta đối với tất cả chúng sanh,
từ con người đến con vật, cây cỏ. Lòng từ ban rải khắp tất c thì ta s tránh (vô tình) gây đau khổ cho chúng sanh, đem lại cho chúng sanh cái vui chân thật. Cái vui do chính lòng từ mang đến s làm cho vạn vật vui mừng, cỏ cây tươi tốt,



trong đó có ta. Đức Phật khi đi còn không giẫm, đạp lên cây c sợ nó héo úa, thậm chí còn không bỏ thức ăn lên cỏ s thức ăn mặn làm chết c, còn ta thì cứ đạp ba lên, nhổ tận gốc rễ. Bởi vậy chúng ta cần phải thực hiện T Lượng Tâm.

Nói về lòng từ thì trong đời sống ca chúng ta có hai cái vui:

1- Cái vui bền bỉ chân thật. Đây lòng t, bi, hỷ, xả của ta ban rải khắp mọi loài chúng sanh trong mọi hoàn cảnh, khiến cho tất cả đều được an vui.

2- Cái vui ngắn ngủi giả tạm. Đây là cái vui còn bị phiền não chi phối vì tham, sân, si đòi hỏi. Cái vui này vui theo dục lạc, đưc thì vui, mất thì buồn; dục lạc không bao giờ có th thỏa mãn hoàn toàn được. Phật dạy: “Kẻ ngu si, vô minh mới chạy theo dục lạc. thứ  dục lạc ảo giác, không thật, chỉ người trí mới hiểu biết thôi”. Bởi vậy, theo lộ trình mà thầy hướng dẫn thì phật tử phải đi theo đúng đường để thoát khỏi phiền não tham, sân, si và không bị dục chi phối. Nó không ồn ào sôi nổi, yên lặng, nhẹ nhàng. Một bóng,  một mình mà vui trong cảnh giới siêu phàm, khi hòa mình cùng cái vui của tr, vạn hữu. Trong niềm vui bất diệt của vạn pháp, thấy ta có v đơn mà thực s không cô đơn. Ta phải so sánh để chọn lấy một nguồn



vui chân thật. Muốn tìm được nguồn vui chân thật thì hàng ngày quý vị phải trau dồi thân tâm của mình trong ba hành động ca nó. Nghĩa là hằng ngày trau dồi ba hành động của thân bằng pháp môn cụ th.

Trong người ca ta có ba cái hành khác nhau là thân hành, khẩu hành và ý hành. Ta phải lấy tứ vô lượng tâm để trau dồi ba cái hành này:

a) Thân hành có hai: chân hành tay hành. b) Khẩu hành gồm hai: ăn nói.
c) Ý hành gồm có ba: ý thiện, ý ác và ý không thiện không ác.

✿✿✿

A) Trau di từ tâm i Thân hành

1- CHÂN HÀNH: Khi đi thì ta phải theo sát hành động đi và có pháp hướng tâm (Như Lý Tác Ý)  để gợi lên  lòng thương yêu của ta  đối với chúng sanh.   Đây không phải tu Chánh Niệm Tĩnh Giác Định, mượn cái hành động chân đi để thực hiện tâm từ dưới bàn chân, trong mỗi bước đi ca chúng ta. (Mỗi người thể tùy theo đặc tướng riêng của mình, soạn thêm những câu pháp hướng tương tự cho phù hợp với mình).



a- ĐI: Cần phải phân biệt thế nào tâm và thế nào ý?

Ý nhân, tâm là quả, cho nên ý làm mà tâm chịu làm ác tâm chịu kh, ý làm thiện tâm hưởng phưc).

Kinh Pháp câu:

“Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm ch, ý tạo. Nếu với ý ô nhiễm,
Nói lên hay hành động, Khổ não bước theo sau Như xe, theo vật kéo”.

Ý thì ý căn (óc não), còn tâm thì không có tâm căn, tâm là qu của ý, ý nhân của m. Nếu gọi tâm bảo là ý thì cũng như đánh trâu kéo cày vừa la thá, va la “ví” thì con trâu biết đường đâu đi? Bởi vậy nên người mới thắc mắc hỏi tại sao dùng pháp hướng nhắc tâm mà nó vẫn trơ trơ không kết quả. Tại ta đặt không đúng ch, không đúng tên, không đúng trường hợp của thì làm sao có kết quả được?

Bây giờ các bạn đã phân biệt đưc ý m, nhờ đó chúng ta dùng ý dẫn tâm để thực hiện tâm từ nơi bước đi:

“Dưới bước chân ta đi, rất nhiều sinh vật nhỏ thảo mộc đang sống. Ta phải đi cẩn



thn đ tránh thương tổn, hoặc giết hại các sinh vật”.

Nhờ nhc như vậy tâm ta tỉnh thc lưu ý ở bàn chân. Đi một lúc, sợ nó quên thì ta lại nhc nữa. Nhờ nhắc nhở hoài gây cho ta tâm thương yêu thắm thía. Nếu hàng ngày trau dồi tu tập như thế thì lòng từ của ta huân tập thành thói quen thương xót ban rải khắp chúng sanh. Khi tâm từ ta ban rải thì ngọn cỏ ta cũng không nỡ đạp n, sợ nó mềm yếu, héo úa. Khi ta trau dồi lòng từ như vậy thì nếu người ta chửi mắng ta, ta cũng không giận. Bấy lâu nay nếu ta không trau dồi thì dù có nghe, có lập lại “phải quán từ bi đ diệt tâm sân” nhưng ta không tập, hoặc tập không rốt ráo thì khó thành công. Quán thì ngồi im m, đó là tịnh; còn ĐI động, ta phải trau dồi trong hành động.

Trên đây cách tập luyện thc tiễn ca người cư sĩ.  Đợi đến khi thành Bồ tát rồi mới trau dồi T Lượng Tâm một điều sai lầm. Người sĩ phải hc tập trau dồi ngay tâm t, bi, h, xả để cuộc sống an vui, xã hội tốt đẹp hơn, đất nước thanh bình, không tranh chấp, chống đối nhau. Còn các tỳ kheo thì học tập đ giữ gìn giới luật và tu tập thiền định.

b- ĐNG: Khi đứng ta cũng nhắc: “Chúng sanh chung quanh ta rất nhiều, nếu ta đứng



trên chúng thì chúng có thể bị tổn thương, héo úa, hoc bị đè bẹp mà chết”. T nay mỗi ngày ta phải ráng thực tập ít ra vài ba lần. Có tu tập như vậy thì lòng ta mới thấm nhuần vạn vật muôn phương.

c- NẰM: Khi nằm ta cũng nhắc như vậy. Do đó, trong ngày nếu bao nhiêu lần ta đi, đứng, nằm, ngồi thì ta đưc bấy nhiêu lần trau dồi. Cũng như người thợ vót tên, mỗi ngày cứ chăm chỉ vót mũi tên cho nhọn đều thì cuối cùng cũng s đạt như ý muốn. Thân ta cũng phải trau dồi như vậy thì tâm ta mới được an vui.

Đây   câu  pháp  hướng khi  nằm:  “Tất  cả chúng sanh s dưới lưng ta. Ta hãy xem xét kỹ chỗ nằm chúng sanh dưới đó không rồi mới nằm”. Nhiều lúc ta quá mệt mỏi và ta không để ý các sinh vật dưới, nếu ta tình nằm lăn qua lăn lại là ta đã giết chết chúng sanh (kiến, nhện, n, cp, v.v...), rên la đau đớn mà ta nào hay. Bởi vậy khi lăn qua, lăn lại ta phải nhắc m, lưu ý thực hiện cho được từ, bi, hỷ, x. Muốn trau dồi lòng từ thì hàng ngày ta phải siêng năng, nỗ lực tu tập thì mới có kết qu. Tâm ta dần dần s thấm nhuần, rộng lớn bao la.

d- NGI: Khi ngồi ta cũng nhắc như vậy: “Khi ngồi ta thể đè bẹp chúng sanh ở phía dưới. Vậy ta phải cẩn thận, quan sát xem có chúng



sanh ở chỗ ngồi không. Nếu không để ý, khi ngồi lắc qua lắc lại ta thể làm đau khổ và chết chóc chúng sanh”.

Trau dồi tứ lượng tâm là thể hiện tâm từ vô lượng mà còn phòng hộ sáu căn. Người tu sĩ mà ngồi lc thì mất trang nghiêm, mắt láo liên, ngó qua, ngó lại không đoan trang. Người tu sĩ thì không nên nhìn người khác phái phải nhìn xuống dưới đất, tránh gây đau kh, chết chóc cho chúng sanh.

Trên đây trau dồi hành động của thân khi đi, đứng, nằm, ngồi, tc là ta tỉnh thức đ tránh gây đau khổ, chết chóc cho chúng sanh. Trau dồi hành động của thân khiến ta càng ngày càng tăng thêm tình thương đối với chúng sanh đ (1) sức tỉnh thức lớn, (2) lòng thương yêu nhiều. Nhờ đó mới diệt tr được tham, sân, si và dứt tr ngũ triền i.

Khi tứ lượng tâm ngự tr tâm ta thì ngũ triền cái s không còn đeo đẳng theo ta nữa. Sự thật không phải đơn giản; mà chính ta phải ra sức tu tập bền chí siêng năng mới thắng được. Mình nói mình thương chúng sanh thực tế là mình thương mình, chứ chưa thương ai hết. Xưa, có câu chuyện ca Hoàng Hậu Vi Đề Hy hỏi vua Bình Sa Vương (Bimbisara) rằng: Bệ hạ có thương thần thiếp không? Vua rất đỗi ngc nhiên, đáp rằng:



Trẫm không thương ái khanh thì còn thương ai nhất trên đời y?”

Hoàng Hậu đáp: “Hoàng Thượng nói vậy chứ thật ra Hoàng Thượng thương Hoàng Thượng nhất!

“Sao lạ vậy?”

T dụ bây giờ thần thiếp yêu một ông quan nào trong triều thì Hoàng Thượng có còn thương thần thiếp nữa không, hay là bắt giam thiếp vào trong ngục hoặc đem xử tử? Đó Hoàng Thượng thương Hoàng Thượng chứ đâu có thương thần thiếp!”

Quả thật, nếu hay tin vợ mình lấy một người khác thì người chồng s nổi cơn thịnh nộ ngay. Vậy thì yêu chỗ nào? Nếu yêu thật s thì phải để cho người mình yêu đưc hạnh phúc chứ? Là đệ tử Phật khi bị một con vật cắn đau (dù con bò cạp) ta cũng không nỡ  giết hại nó. Chính vì lòng ích kỷ nhỏ nhen đó xã hội mới có tranh chấp, bất an, chứ nếu lòng thương yêu của chúng ta rộng lớn chắc chắn không có s bất an đó.

Cho nên bài học đầu tiên trong Phật pháp là Tứ Lượng Tâm. Tại sao thế? muốn con người biết thương yêu nhau, xây dựng một xã hội tốt đẹp, trật tự, an ninh. Hình thc bên ngoài thì ta thấy các quc gia, xã hội có trật tự, mà



bên trong thì chưa có. Đời sống ngày càng khó khăn thì lòng người càng ly tán. Đc Phật dạy ta phương pháp để trau dồi tâm t. Khi ta đang đi thiền hành và biết dùng pháp hướng nhc tâm tức là ta đang trau dồi tâm từ. Còn nếu trong c đi mà ta thấy trong ta tình thương yêu rộng lớn, và luôn luôn tránh để không giẫm đạp lên kiến hay bất c một loại côn trùng nào, tc là ta viên mãn lòng từ lượng. Với tâm từ như vậy thì ta không nỡ đạp lên cỏ, ngắt một ngọn lá, bẻ một cành cây, hay hái một cành hoa. Tâm ta phủ trùm, thương yêu khắp vạn vật. Chỉ cần một pháp này cũng đủ để giải thoát. Khi có lòng thương rộng lớn thì không tham, không giận, và ngã chấp cũng không còn. Thương yêu cá nhân thì ngã mới có. Không phải chờ đến khi nhập TThiền, đc Tam Minh mới diệt hết lậu hoặc, chẳng phải chờ đến khi nhập Niết Bàn lòng ta đã Niết Bàn sau một năm tu tập tinh chuyên!

Giờ đây chúng ta mới hiểu sao Phật cấm các tỳ kheo trồng cây cối, hoa kiểng, không làm một nghề nào cả. Còn làm là  còn  động  đến chúng sanh, làm cho chúng sanh đau khổ. Không phải ta  ích  k,    ta  muốn  thực hiện  lòng  yêu thương phủ trùm vạn vật. Tóm lại, hàng ngày chúng ta phải trau dồi tâm từ trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi bằng pháp hướng tâm.



2- TAY HÀNH: Trau dồi tâm từ trong hành động tay khi đang cm, nắm, bắt tất cả những vật dụng, hoặc khi mc áo, ăn m, ta phải luôn luôn như tác ý. T dụ như câu: “Tất cả những vật dụng, cơm ăn, áo mặc, thuốc thang đều do mồ hôi, nước mắt của ngưi. Vậy ta phải biết ơn, thương yêu họ thương yêu mọi ngưi, dù người đó hay không có cúng dường cho ta”. Thậm chí nếu người đánh, mắng, chửi rủa ta, ta cũng không bao giờ đánh, mắng, chửi rủa, hay to tiếng với họ, làm cho họ khổ s. Ta phải nói lời nhẹ nhàng cho người vui không buồn khổ na.

Khi cầm, nắm, bắt, tay ta cũng phải nh nhàng, từ tốn, trên đồ vật y thể chúng sanh, nếu ta mạnh tay là ta th giết chết sinh vật y. Tập luyện như vậy là tập luyện tỉnh thức trong hành động đ trau dồi tâm từ, bi, h, xả, chứ không phải là Chánh niệm tĩnh giác định.

Muốn trau dồi tâm từ trong các hành động nơi tay thì ta phải tác ý thường xuyên để không ý làm đau khổ chúng sanh. Khi tinh tấn, siêng năng tu tập tức ta thực tập tĩnh giác, dần dần ta mới thật s thương yêu chúng sanh. Khi chúng sanh đang mạnh giỏi ta thương yêu là ta ban lòng từ rộng lớn; còn khi chúng sanh bị nạn, đau khổ mà ta săn sóc, giúp đỡ ta thực tập lòng bi. Hàng ngày ta phải tránh để cho chúng sanh sống an



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!