Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

pháp tu của phật - tứ vô lượng tâm 2


Đến đây quý vị đã thấy từ SƠ THIN của ngoại đạo đã tr thành T CHÁNH CN của Phật giáo.

Phật giáo đã làm đảo lộn tất cả pháp môn tu hành ca ngoại đạo, làm cho chúng điên đầu. Nhất là kinh sách Đại tha và Thiền tông đang bị dao động mạnh bởi sóng gió T Chánh Cần. Khi tu tập theo giáo pháp ca đc Phật, thì quý vị nên nhớ phải tu tập T CHÁNH CN. Đó những pháp đầu tiên đánh vào quan đầu não của giặc sinh tử luân hồi. Cho nên những đòn đánh ngăn ác, diệt ác pháp như sấm sét, như bão thì mới mong ngăn diệt ác pháp được.

Khi tu tập phải đem hết ý c dũng mãnh, kiên cường gan d đánh đòn nào phải chính xác đầy đủ sc mạnh thì mới mong ngăn diệt đưc ác pháp, chớ tu tập sìu sìu cho lấy có thì không bao giờ quét sch hôn trầm, thùy miên, ngoan không.

Quý vị tu tập thì phải thật tu, tu cho đúng pháp,  phải  đi  kinh  nh  nhiều,  tu   ngồi nhiều thì sinh ra lười biếng. Tu hành như vậy chẳng đi đến đâu c, chỉ phí công sức và mất thời giờ ích.

Trong T CHÁNH CN gồm bốn pháp tu tập:


PHÁP TU... THI KA... TỨ VÔ NG... TỨ BẤT HOI...

1- Chánh Niệm Tĩnh Giác Định.
2- Định Vô Lậu.
3- Định Sáng Suốt.
4- Định Niệm Hơi Th.

Những loại định này đều tu tập trên bốn chỗ: thân, th, tâm và pháp (T Niệm X). Vì thế, người mới vào tu đều phải bắt đầu tu tập bốn loại định này. Nếu ai không tu tập bốn loại định này mà tu tập pháp nào khác là tu tập sai pháp Tứ Chánh Cần, tu theo ngoại đạo.

TChánh Cần của Phật là pháp môn NGĂN ÁC, DIT ÁC PHÁP tuyệt vời, nếu không pháp môn này thì mọi người tu tập đều bị ức chế ý thức. Vậy ác pháp cần phải ngăn và diệt gì?

Ác pháp tức TÀ NIM, 2 phần:

1- niệm thuộc về m: Có nghĩa là tâm ham muốn, lo lắng, sợ hãi, buồn rầu, giận hờn, ghen tức, căm thù, thương nh, phiền o, v.v...

2- niệm thuộc về thân: Có nghĩa là thân bị bệnh kh, đau nhức chỗ này, đau nhức chỗ kia, ngứa ngáy, chóng mặt, đau lưng, đi đứng không vững vàng, mỏi mệt, hôn trầm, v.v...

Những niệm này thường xảy ra trong thân tâm (thân, th, m, pháp) của chúng ta, khiến cho cuộc sống ca chúng ta bất an. thế, chúng ta



phải ngăn diệt chúng, để luôn sống và tăng trưởng trong Thiện Pháp.

SINH THIN, TĂNG TNG THIN PHÁP, câu này không nghĩa dạy chúng ta đi làm việc từ thiện, đi làm phưc giúp người bất hạnh trong xã hội, mà dạy chúng ta nên sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất c chúng sinh.

Vậy sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh thì phải sống như thế o?

Như trong pháp môn T Chánh Cn, Phật dạy: Sinh thiện, tăng trưởng thiện pháp. Thiện pháp ở đây nghĩa M BT ĐNG, THANH THẢN, AN LC và VÔ S, chớ không nghĩa thiện đơn thuần. Hằng ngày giữ gìn bảo  vệ  Tâm Bất Động thì đó những điều toàn thiện, rất thiện. Thiện đó mới thật s thiện, thiện không làm khổ mình, khổ người và khổ tất chúng sinh.

Bởi pháp thiện Tâm Bất Động thiện cứu cánh, chân của Phật giáo. Nếu ai từng sống với người chứng đạo. Cho nên, chứng đạo của đạo Phật chứng đạo một cách d dàng không có khó khăn, mệt nhọc chút nào c.

✿✿✿



PHÁP TU..  THI KHÓA .. TỨ NG..  TỨ BẤT HOI...
 

 
.                      .                              .









TỨ NIM X












K
 
hi tu tập T Chánh Cần thuần thục, thì không còn ác pháp tới lui na, đức Phật
cảm nhận thân tâm mình tham, sân, si giảm bớt thấy rất  ràng.  Đồng  thời trạng thái tâm bất động, thanh thản, an lạc sự rõ ràng hơn, và mỗi ngày đức Phật càng tăng thời gian kéo dài thêm trạng thái đó.

Lúc bấy giờ, đc Phật thấy tâm mình rất lạ lùng, là luôn luôn cảm nhận toàn thân tâm của mình trong hơi thở ra hơi thở vào, từ canh này sang canh khác, không có một niệm nào xen vào; không một ác pháp nào khởi ra đưc, nhất là các ác pháp bên ngoài không tác động vào đưc thân tâm. Do trạng thái y, đức Phật không còn phải ngăn, diệt dục ác pháp như trong pháp môn tu tập T CHÁNH CN.



Khi tu tập pháp môn TChánh Cần thì niệm dục niệm ác pháp khởi liên tục, còn bây giờ thì khác xa, tâm không có bất kỳ một niệm ác hay dục khởi lên một cách rất tự nhiên, chớ không phải còn gò ra công tu tập như ngày xưa nữa.

Với cách quán xét thân, thọ, tâm, pháp như vậy, từ ngày này sang ngày khác, chỉ duy nhất có một cảm nhận quán xét trên toàn thân. Khi trạng thái này xuất hiện thì sự tu tập TÂM BT ĐNG của đức Phật rất dễ dàng và thoải i.

Suốt thời gian còn lại hơn 7 ngày, trong 49 ngày tu tập dưới cội bồ đề, đc Phật thấy rất rõ tâm mình một cảm nhận trên thân quán thân như vậy, không một tâm niệm nào khác nữa. Trong suốt 7 ngày đêm đc Phật tưởng chừng như trong một khoảng thời gian rất ngắn, chỉ hơn một phút. trạng thái tâm này kéo dài cho đến khi tâm VÔ LU  hoàn toàn. Nhờ tâm Lậu hoàn toàn nên mới có đầy đủ TTHN TÚC. Đó là lúc chứng đạo giải thoát.

Từ trạng thái tu tập tâm y, đức Phật mới đặt cho một cái tên đúng nghĩa quán bốn chỗ của nó: T NIM X.

Khởi đầu đức Phật tu tập SƠ THIN của ngoại đạo, nhưng do sáng kiến biết sáng tạo ra những pháp tu hành để ly dục, ly ác, làm chủ sinh, già, bệnh, chết, tức là làm chủ thân tâm. cuối cùng



đức Phật thành tựu tâm VÔ LU bằng pháp môn T NIM X, chứ không phải nhập Thiền theo pháp môn ca ngoại đạo.

Bởi vậy, pháp môn T Niệm Xứ chỉ đạo Phật mới có, còn tất c các tôn giáo khác đều không có pháp môn này. Tại sao lại gọi là TNIM X?

Tứ Niệm Xứ nghĩa bốn nơi dùng để quán xét, gồm có:

1- THÂN phần cơ thể đầu, mình, hai tay và hai chân.

2- TH các cảm thọ của thân tâm.

3- TÂM phần sáu thức tiếp xúc sáu trần.

4- PHÁP thân, thọ, tâm sáu trần đang xung quanh chúng ta.

Trong bốn nơi này, chỉ cần quán xét một nơi là quán xét tất cả bốn nơi. Cho nên mới gọi TNIM X.

Trên Tứ Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập:

1- T CHÁNH CN tu tập trên Tứ Niệm Xứ. (Giai đoạn này người mới tu vẫn tu tập được tu tập như vậy mới căn bản)

2- T NIM X tu tập trên Tứ Niệm Xứ. (Giai đoạn rất khó tu, nếu mất căn bản thì không nhiếp



phục được tham ưu trên thân, th, tâm pháp)

3- THÂN HÀNH NIM tu tập trên Tứ Niệm Xứ. (Giai đoạn này giai đoạn cuối cùng của Tứ Niệm X, chuyên tu tập lệnh để thực hiện Tứ Như Ý Túc)

T CNH CN tu tập trên T Niệm Xứ là phương pháp tu tập lớp Chánh Tinh Tn, lớp thứ 6 trong Bát Chánh Đạo. Còn T NIM X tu tập trên T Niệm Xứ phương pháp tu tập lớp thứ bảy, tức là lớp CHÁNH NIM trong Bát Chánh Đạo. Lớp thứ bảy lớp tu chứng đạo của Phật giáo. Ngoài pháp môn T NIM X thì không có pháp nào tu chứng đạo giải thoát được.

Bởi trên T Niệm Xứ có ba giai đoạn tu tập, cho nên có những bài kinh đức Phật dạy tu tập Tứ Niệm X, nhưng kỳ thực là dạy tu tập T CHÁNH CN trên T Niệm Xứ. Đây, chúng ta hãy lắng nghe Phật dạy: “Những Tỳ kheo o, này các Tỳ kheo, mới xuất gia tu chẳng bao lâu, mới đến trong những pháp luật y. Những Tỳ kheo ấy, này các Tỳ kheo, cần phải đưc khích lệ (samàdapetabbà), cần phải đưc hướng dẫn, cần phải được an trú, tu tập Bốn Niệm X (thân, thọ, tâm, pháp). Hãy chuyên chú với tâm thanh tịnh, định tỉnh nhất tâm đ có chánh trí như thật đối với các pháp”.

Cho nên, người mới xuất gia vẫn tu tập pháp



môn T Niệm Xứ, nhưng phải tu tập giai đoạn đầu T CHÁNH CN trên T Niệm X.

Bởi vậy, nếu một người không tu tập thì không thể nào hiểu được pháp môn T Niệm X, và cũng không hiểu được Giới Luật.

Thưa các bạn! Các bạn muốn biết rõ pháp môn TNIM X thì hãy lắng nghe đức Phật dạy: “Một thời, Thế Tôn Vesàli tại rừng Ambapàli. Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỳ kheo: Này các Tỳ kheo, T kheo cần phải trú Chánh Niệm Tĩnh Giác. Đây lời giáo giới của Như Lai cho các Thầy.

Và này các Tỳ kheo, thế nào Tỳ kheo Chánh Niệm? đây, này các Tỳ kheo, T kheo trú quán thân  trên  thân,  nhiệt  tâm,  nh  giác  chánh niệm, nhiếp phục tham ưu đời; trú quán thọ trên các th, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu đời; trú quán tâm trên m, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu đời; trú quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh nim nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vy, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo Chánh Niệm”.

Đoạn kinh trên đây dạy chúng ta cách thc chánh niệm, tức là học lớp Chánh Niệm. Vậy CHÁNH NIM gì?

Theo đoạn kinh y, thì Chánh Niệm là niệm



THANH THN, AN LC VÔ S. Niệm thanh thản, an lạc sự hiện tiền trên bốn chỗ Tn, Thọ, Tâm, Pháp thì niệm không bao giờ xen vào được. Nếu niệm xen vào được thì tức khc phải nhiếp phc, không được đ chúng tác động vào thân, thọ, tâm và pháp.

Như đã nói phần T Chánh Cần, TÀ NIM là các niệm dục ác pháp trên thân tâm. Nhưng sang giai đoạn tu tập T Niệm X, thân tâm chỉ còn các niệm vi tế, chứ không còn các niệm thô như lúc mới tu tp ngăn ác, diệt ác pháp.

Vy còn TRÊN THÂN QUÁN TN như thế nào?

Trên thân quán thân có nghĩa là dùng mắt nhìn thấy, tai lắng nghe, thân cảm nhận xúc chạm và ý thức quan sát ngay trên thân. Nếu thân đau nhức chỗ nào liền biết ngay, thân đi biết thân đi, thân ngồi biết thân ngồi, thân nằm biết thân nằm, thân đứng biết thân đứng, v.v...

Tuy nói trên thân quán thân nhưng thật s là đang quán bốn chỗ: thân, thọ, tâm pháp. Vì biết thân là biết thọ, biết thọ biết tâm, biết tâm biết pháp, biết pháp biết thân. Cho nên trên T NIM X, biết chỗ này thì liền biết chỗ khác. Bốn chỗ này như một khối. Tuy nói bốn nhưng một.



Quán thân trên thân, tức tâm tnh thức trên thân, nên thân xảy ra một điều lớn lao hay nhỏ nhặt tâm đều biết rất rõ. Cho nên nói trên thân quán thân chớ kỳ thc là quán TÂM BT ĐNG, nếu Tâm Bất Động suốt bảy ngày đêm là tu tập chứng đạo. Còn ngược lại, trong bảy ngày đêm tâm thường bị hôn trầm, thùy miên, và loạn tưởng thì nên dùng pháp NGĂN ÁC, DIT ÁC, để mà diệt các ác pháp y.

Bởi vậy, pháp môn TNIM X một pháp môn tu tập đ chứng đạo. Pháp môn này rất quan trọng, nếu ai không tu tập thì không bao giờ chứng đạo. Cho nên chúng ta cần phải thông suốt đường lối tu tập như thế nào đúng và như thế nào sai.

Một lần na chúng tôi xin nhắc các bn: Phải tu tập pháp môn TỨ CHÁNH CN rồi sau mới tu tập đến pháp môn TNIM X. Nếu không biết thì đừng nên tu tập, bởi tu tập cũng chỉ uổng công thôi.

Các bạn đừng nghe nói pháp môn T NIM X ham tu cao. Pháp môn này dành cho những bậc GII LUT nghiêm c, dành cho những bậc tâm đã BẤT ĐNG trước các ác pháp các cảm thọ, chớ không phải pháp môn này bất c ai muốn tu tập đều tu tập đưc. Nếu các bạn tu tập mà không biết khả năng trình độ



của mình thì đó tu tập sai pháp, xin quý vị cn lưu m.

Bất cứ thân làm điều đều biết: Thân ăn biết thân ăn, thân ngủ biết thân ng, thân quét sân biết thân quét sân, thân lặt rau biết thân lặt rau, thân ngồi yên biết thân ngồi yên khi thân ngồi yên bất động thì biết hơi thở ra, hơi thở vô trên thân. Tất c hành động đều đưc xem trên thân quán thân. quán hơi thở ra, hơi thở cũng chính là trên thân quán thân.

Trên thân quán thân đưc như vậy là phải sc tỉnh thức. Đây, chúng ta hãy nghe đức Phật dạy cách thức tu tập tỉnh thc: Và này các Tỳ kheo, thế nào Tỳ kheo tĩnh giác? đây, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo tĩnh giác khi đi tới, đi lui; tĩnh giác khi ngó tới, ngó lui; tĩnh giác khi co tay, duỗi tay; tĩnh giác khi mang áo sanghati (tăng già lê), mang t, mang y; tĩnh giác khi ăn, uống, khi nhai, nếm; tĩnh giác khi đại tiện, tiểu tiện; tĩnh giác khi đi, đứng, khi ngồi, nằm; khi thức, khi nói, khi im lặng đều tĩnh giác. Này các Tỳ kheo, như vậy Tỳ kheo sống tĩnh giác”. Đoạn kinh trên đây đã xác định sự tĩnh giác trên thân hành ca chúng ta. Vậy THÂN HÀNH của chúng ta là gì?

Thân hành ca mỗi người đưc chia ra làm hai phần:

1- Thân hành nội. (hơi thở)



2- Thân hành ngoại. (tất cả mọi sự hoạt động của thân)

Thân hành hoạt động gồm ba nơi:

1- Thân
2- Miệng
3- Ý

Như vậy, muốn tĩnh giác trên thân hành thì các bạn hãy phản tỉnh lại thân, miệng, ý ca mình. Khi phản tỉnh lại thân, miệng, ý của mình là các bạn  hãy  chủ  động  điều  khiển thân  hành,  khẩu hành ý hành, khiến cho thân hành, khẩu hành, ý hành ca các bạn không lỗi lầm. Thân hành, Khẩu hành, Ý hành của các bạn không có lỗi lầm tức Chánh Niệm, còn lỗi lầm Tà Niệm.

Bài kinh này đức Phật dạy chúng ta phải phản tỉnh lại thân hành, khẩu hành và ý hành, nói chung là dạy c ý tất c các hành động của thân, đó là tĩnh giác. Nhưng nếu nghe như vậy, rồi các bạn tu tập chỉ lo chú ý tập trung trên thân hành một cách ức chế tâm cho hết niệm khởi, thì đó là một điều tu sai lệch pháp hết sc. Đó các bạn đã hiểu sai, biến pháp x tâm của Phật thành pháp ức chế.

Đức Phật rất s chúng ta tu tập T Niệm Xứ lầm lạc thì tai hại không lường được về hậu quả.



Bởi pháp môn Tứ Niệm Xứ là một pháp môn độc nhất đ đưa con người có đủ năng lc làm chủ nhân quả, tức làm chủ mọi s hoạt động của chúng ta hằng ngày. Tức như lời đc Phật dạy ở đoạn  kinh  trên“Tỳ  kheo  phải  sống  an  trú chánh niệm nh giác”.

Cho n, chúng ta hãy hiểu cho rõ ràng, để biết cách sống AN T CNH NIM TĨNH GIÁC mà không sai lầm trên pháp môn T niệm Xứ. Đây, xin  các  bạn  hãy  lắng  nghe đức Phật  dạy  tiếp: Vậy này các Tỳ kheo, các Thầy phải gội sạch hai pháp cơ bản v các thiện pháp, thế nào hai pháp bản v các thiện pháp? Chính Giới khéo thanh tịnh Tri kiến chánh trực. Này các Tỳ kheo, khi nào các Thầy được Giới khéo thanh tịnh Tri kiến chánh trc, các Thầy hãy y cứ trên giới, an trú trên giới tu tập Bốn Niệm X: thân, thọ, tâm, pháp”. (kinh Tương Ưng tập 5 và Tăng Chi B kinh tập 1).

Đoạn kinh trên dạy rất ràng: “Giới luật Tri kiến. Bởi vậy, muốn khắc phục những tham ưu trên thân, th, tâm pháp thì phải y cứ trên GII LUT, sống không h vi phạm một lỗi nhỏ nhặt o, thì mới mong đẩy lui các chướng ngại pháp trên đó (khắc phc tham ưu).

Thưa các bạn! Trong kinh Ước Nguyện, đức
Phật cũng đã nhc nhở chúng ta rất nhiều v giới



luật. giới luật rất quan trọng trên con đường tu tập giải thoát. Muốn ưc nguyện kết quả một điều gì trong s tu tập thì giới luật phải nghiêm chỉnh. Ở đây, tu tập T Niệm Xứ đức Phật cũng dạy chúng ta lấy GII LUT và TRI KIN làm nền tảng cho s nhiếp phục những tham ưu trên TNIM X, nghĩa mun đẩy lui những sự khổ đau trên thân, thọ, tâm pháp thì giới luật phải nghiêm chỉnh. Giới luật nghiêm chỉnh thì tri kiến thanh tịnh, tri kiến thanh tịnh thì giới luật mới nghiêm chỉnh. Giới luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật. Đó nền tảng vững chắc đ chúng ta tu tập T Niệm Xứ mà làm chủ bốn s đau khổ: sanh, già, bệnh, chết của đời người.

Bởi vậy, pháp môn T Niệm X ngọn đèn soi sáng, là chỗ nương tựa vững chc cho chúng ta. Đây, các bạn hãy lắng nghe suy nghĩ kỹ những lời đức Phật nhc nhở ông A Nan: “Này Ananda, hãy tự mình ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một điều gì khác; dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một điều khác. Này Ananda, thế nào Tỳ kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác; dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa



một điều khác?

đây, này Ananda, T kheo trú quán thân trên  thân,  nhiệt  tâm,  nh  giác chánh  niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; trú quán thọ trên các thọ, nhiệt m, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phc tham ưu ở đời; trú quán tâm trên tâm, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh nim, nhiếp phc tham ưu ở đời; trú quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tĩnh giác chánh niệm, nhiếp phục tham ưu đời. Như vậy, này Ananda, T kheo tự nh ngọn đèn cho chính nh, tự  mình nương tựa  chính nh, không nương tựa một điều khác; dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều khác”.

Các bạn nghe chăng? Tứ Niệm Xứ là ngọn đèn chánh pháp, chỗ nương tựa vững chắc cho các bạn. Như vậy, T Niệm Xứ đúng một pháp môn rất quý báu nên đc Phật lặp đi lặp lại nhiều lần, để chúng ta đừng quên pháp môn này.

đoạn kinh trên, đức Phật dạy chúng ta 2 điều:

1) Lấy mình làm ngọn đèn, làm chỗ nương tựa vững chắc, ý muốn dạy điều đây?

Xin thưa cùng các bạn! Tự mình ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương ta chính mình, không nương tựa một điều khác”. Để thấu



xác định ý nghĩa của câu y, chúng tôi xin lặp lại: T mình ngọn  đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình. Đó Tri Kiến của chúng ta đấy các bạn ạ!

2) Dùng chánh pháp làm ngọn đèn soi sáng, dùng  chánh  pháp  làm  chỗ  nương  tựa,  không nương tựa một điều khác, ý Phật muốn dạy pháp môn đây?

Xin thưa cùng các bạn! Đó Giới đức, Giới hạnh, Giới hành pháp môn Tứ Niệm Xứ. Đọc đến những đoạn kinh trên đây, chắc các bạn đã thấu hiểu phân biệt chánh pháp của Phật là pháp nào, còn pháp của ngoại đạo pháp nào? Nếu không có những lời xác định chánh pháp của Phật, thì đứng trước rừng kinh sách hiện gi, các bạn dễ rơi vào kiến giải tưởng của ngoại đạo.

Như chúng tôi đã nói đoạn trước, nếu một người không tu tập thì không th nào hiểu được pháp môn T Niệm X, cũng không hiểu được Giới Luật. Bởi trong khi trên T NIM X có ba giai đoạn tu tập, thì Giới đức, Giới hạnh và Giới hành cũng là ba hành động đạo đc hàng ngày để tu tập GII LUẬT.

Thực hiện giới luật phải luôn luôn thực hiện với tri kiến, cho nên kinh dạy: “Giới luật đâu là tri kiến đó, tri kiến đâu là giới luật đó, giới



luật làm thanh tịnh tri kiến, tri kiến làm thanh tịnh giới luật”. Nếu người tu sĩ người cư sĩ không thực hiện giới luật nghiêm chỉnh, còn vi phạm những lỗi nhỏ nhặt, không thấy xấu hổ sợ hãi thì tu T Niệm Xứ chẳng bao giờ có kết quả rốt o, chỉ hoài công ích thôi, uổng phí một đời tu.

Ngoại đạo không bao giờ có pháp môn Tứ Niệm X, cho nên ngoại đạo không có ai tu chứng đạo giải thoát. Nhờ pháp môn T Niệm Xứ nên ngoại đạo không th lừa dối phật tử, lấy pháp môn của mình cho là pháp môn ca Phật được.

Tóm lại, khi tu hành theo Phật giáo thì không nên tu tập bất cứ một pháp môn nào khác, mà chỉ nên tu tập Tri Kiến, Giới Luật T Niệm Xứ.

Trước khi nhập diệt, đc Phật đã di chúc: “Sau khi Ta nhập diệt, các vị T kheo hãy lấy GII LUT GO PHÁP của Ta làm THẦY”. Giáo pháp mà Ngài đã di chúc ở đây là pháp môn T NIM X.

Pháp môn T Niệm Xứ pháp môn nhiếp tâm BẤT ĐNG cuối cùng của Phật giáo, chính người tu tập sống đưc với tâm Bất Động đã chứng đạo. đây không còn tu pháp môn nào khác nữa. Cho nên pháp môn T Niệm Xứ được xem pháp môn tu tập cuối cùng của Phật giáo,



gọi CNH NIM. Nơi đây tất c năng lc làm chủ thân tâm s đưc xuất hiện trên mảnh đất Bất Động. BY GIÁC CHI cũng xuất hiện đầy đủ trên tâm Bất Động y. thế, quý vị đừng vội vàng tu tập T Niệm Xứ, mà nên xét lại tâm mình đã Bất Động ca, nếu tâm BẤT ĐNG thì mới tu tập TỨ NIỆM X, còn chưa thì nên trở lại tu tập pháp môn T CNH CN.

vậy, xin quý vị đừng hiểu rằng 49 ngày đức Phật ngồi dưới cội bồ đề tu tập Bốn Thiền, tức là từ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền T Thiền của ngoại đạo. Sự thật, trong gần 6 tuần đầu, đức Phật tu tập ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp trong pháp môn T CHÁNH CN. Kế đó, hơn 7 ngày cuối cùng, đức Phật an trú tự nhiên trên T NIM X để quét sch các tà niệm vi tế của thân tâm, cho đến khi BY GIÁC CHI sung mãn thì TTHN TÚC và TAM MINH xuất hiện. Một kết qu tâm VÔ LU hoàn toàn. Đến đây, chặng đường tu hành làm chủ sinh, già, bệnh chết của đức Phật đã thành công.


HT



Trưởng Lão TCH THÔNG LC
 













THI KHÓA

TU  TẬP Trong thời Đức phật (trong tng kinh pali)



PHÁP TU..  THI KHÓA .. TỨ NG..  TỨ BẤT HOI...
 
40
 
.                     .                              .


Thank you for evaluating Wondershare PDF Splitter.




0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!