Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

những lời gốc phật dạy - tập 4-3


cho nên kinh sách của các học giả biên soạn là kinh sách tưởng, không phải Phật thuyết.
Diệt  Đế  là  chân  líù   của  đạo  Phật  rất  cụ thể,  rõ  ràng,  không  mơ  hồ,  trừu  tượng.  Một trạng thái giải thoát thật sự mà mọi người ai cũng nhận ra được bằng ý thức của mình.
Kính  thưa  các  bạn! Chân  lí của  Phật  giáo đã  xác định rõ ràng  điều này.  Khổ Đế  và  Tập Đế  là  hai  chân  lí đầu  tiên  đã  chỉ  rõ  đời  sống thế gian là một đời sống dẫy đầy sự khổ đau vô cùng  tận.  Những  chân  lí này  đã  xác  định như vậy thì không còn ai phủ nhận được. Còn chân líù thứ ba là Diệt Đế. Diệt đế là chỉ cho tâm bất động trước  các pháp  ác  và  các  cảm thọ; là  một đời sống  bình  an và  hạnh phúc không còn khổ đau nữa.  Đó  chính  là  mục  đích  giải  thoát  của Phật  giáo  rõ  ràng  và  cụ  thể,  nên  không  ai  có thể cho nó mơ hồ ảo tưởng được.
Chân lý thứ tư như các bạn đã biết nó là chương trình giáo dục đào tạo bằng những giáo pháp  tu  tập  rèn  luyện  đưa đến  không  còn  khổ đau  nữa  tức  là  đạt  đến  mục  đích  giải  thoát hoàn toàn mà trong kinh đức Phật đã cho ví dụ như một cây thang bắc lên ngôi nhà lầu.



Đọc trong  bài  kinh này  chúng  ta  thấy  tất cả  các  vị  Bà  La  Môn  từ  đại  tôn  sư biên  soạn viết  ra kinh sách  Vệ  Đà  cho đến  các  vị  Bà  La Môn  hiện  nay  đang  hành  trì theo  giáo  pháp này. Người nào cũng không xác định được cảnh giới  giải  thóat  cụ  thể  rõ  ràng.  Phần  nhiều  các vị Bà La Môn chỉ nói hay lý luận trong mơ hồ, trừu  tượng,  ảo  tưởng  v.v.. Điều  đó  cho biết  các Bà La Môn này chắc chắn là không biết, không thấy.  Vậy mà  họ bảo  rằng:  ‚Đây  là  trực  đạo, đây   là   chánh đạo   hướng đến,   dẫn   đến cộng  trú  với  Phạm  thiên, nếu  ai tu theo nó”.  Lời dạy  này  không  chính  xác  và  không hợp lí, xin  các bạn lưu ý: Những loại kinh sách tưởng giải nầy trong Đạo Phật ở  thời đại chúng ta vẫn phát triển nhiều lắm.
Ví dụ ngôi nhà lầu và cây thang là ý đức Phật  không  chấp  nhận  những  cảnh  giới  siêu hình,  những  loại  thiền  tưởng,  ức  chế  tâm  sinh ra những trạng thái mơ hồ, trừu tượng...
Mục  đích  cứu  cánh  giải  thoát  là  phải  cụ thể rõ ràng, mọi người đều nhận ra bằng ý thức một cách dễ  dàng, có đúng như vậy mới tin còn không đúng như vậy mà tin là tin mù quáng.
Giáo  pháp  tu  tập  của  Phật  giáo  là  đức hạnh sống của con người, vì thế chứng đạt được




mục đích không có khó khăn. Giáo pháp của Phật không phải là thứ giáo pháp mơ hồ, trừu tượng như kiểu kinh sách tưởng giải: Kiến tánh thành Phật, Chẳng  niệm thiện niệm ác  là  bản lai diện  mục  hiện  tiền  hay  Tham  thoại  đầu, Khán công án, hay Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm  hoặc  Hành  thâm  Bát  Nhã  Ba La  Mật  đa thời  chiếu  kiến  ngũ  uẩn  giai  không  độ   nhất thiết khổ ách… rồi thõng tay vào chợ, tự tại vào chốn thanh lâu tiểu điếm, vô ngại ăn thịt chó uống rượu để  độ  sanh, hoặc còn Chăn trâu, Giữ ông chủ hay biết vọng liền buông, hay đói ăn khác uống mệt đi ngủ v.v..
Kính  thưa các bạn! Cách thức tu tập như vậy  không  có  thực  tế,  còn  nô  lệ  cho lòng  dục của  mình  rồi  biện  minh  đủ  điều,   không  đoạn diệt tâm tham, sân, si…
Đây  các  bạn  hãy  nghe đức  Phật  dạy tiếp:
‚Này Vàsettha, như sông Aciravati này đầy tràn đến bờ khiến con quạ có thể uống được. Có  người  đến,  có  sự  việc  bên  bờ  kia, tìm đến  bờ  bên  kia, hướng đến  bờ  bên  kia và  muốn  lội  qua  bờ  bên  kia. Người  đứng bờ  bên  này kêu bờ  bên  kia và  nói: ‚Bờ  bên kia hãy lại  đây!  Bờ  bên  kia hãy lại  đây!‛. Này Vàsettha người nghĩ thế nào?  Có phải



vì người kia kêu gọi bờ bên kia, vì cầu khẩn,  vì hy  vọng, vì tán  thán mà  bờ  bên kia của sông Aciravati đến bờ bên này không?‛.
Đức  Phật  cho  một  ví  dụ  điển   hình   cho chúng ta thấy pháp môn Tịnh Độ, pháp môn Pháp Hoa là những pháp môn cầu khẩn, cúng bái, sám hối  v.v.. mà  từ bấy lâu nay đã  truyền thừa bao thế hệ với những điều mê tín bằng sự cầu  khẩn,  tán  thán,  hy vọng  hay sám  hối,  cầu an để được  tiêu tai giải trừ nghiệp ác. Những hành  động  tu  tập  của  những  giáo  pháp  này cũng  giống  như  người  đứng  ở   bờ  bên  này  mà gọi  bờ  bên  kia  để  bờ  bên  này  sang sông.  Một việc làm mơ mộng không thực tế chút nào, một sự tu hành  như vậy  không thể  có sự giải  thoát được.
Đây  là  một  bài  kinh mà  đức  Phật  đã  làm sáng tỏ cái sai của kinh sách nương vào tha lực ảo  tưởng.  Nhờ  bài  kinh này  mà  chúng  ta  thấy những kinh sách ảo tưởng là sau này biên soạn chứ không phải giáo pháp của đức Phật thuyết.
Sự cầu khẩn, sự cúng tế, sự lễ  lạy sám hối, sự niệm hồng danh chư Phật, sự niệm Phật cầu vãng sanh Cực lạc Tây phương cũng giống như người  đứng  ở   bờ  sông  bên  này  mà  kêu gọi  bờ



sông  bên  kia  ‚Bờ bên  kia hãy lại  đây!  Bờ bên  kia hãy lại  đây!‛.  Những  việc  làm  vô vọng, những sự tu hành như vậy thật là hoài công, vô ích, chỉ uổng cho một đời tu tập.
Bài kinh trên đây đã xác định cho các bạn thấy  rằng:  chỉ  có  một  con đường  duy nhất  đưa đến  cứu  cánh  giải  thoát  hoàn  toàn,  đó  là  Đạo Đế.  Đạo  đế   là  một  chương  trình giáo  dục  và đào  tạo  đạo  đức  nhân  bản  -  nhân  quả  sống không làm khổ mình,  khổ người, có tám lớp và ba cấp  như đã  nói  ở   trên.  Cho nên,  người  mới vào tu tập là phải vào cấp một, tức là cấp giới luật. Sau khi tốt nghiệp cấp giới luật xong mới lên  cấp  hai,  cấp  hai  là  cấp  tu  tập  thiền  định. Sau khi tốt  nghiệp  cấp  thiền  định xong,  thì mới  lên  cấp  ba là  cấp  tuệ.  Sau khi tốt  nghiệp xong cấp  tuệ  là  đã  học  xong chương trình đào tạo  đức   hạnh  làm  Người,  làm  Thánh.  Ngoài Đạo Đế này ra thì không có pháp môn nào hướng  đến,  dẫn  đến  cứu  cánh  giải  thóat  được. Cho nên, các bạn có nhớ lời Phật dạy không? Phật dạy: Đừng có tin! Đừng có tin!!!
1.  ‚Chớ có tin vì nghe truyền thuyết.

2.  Chớ có tin vì nghe truyền thống.






đến.

3.  Chớ có tin vì nghe nhiều người nói


4.  Chớ              tin            được  kinh   tạng

truyền tụng.

5.  Chớ   có  tin  vì nhân  lý  luận  siêu hình.
6. Chớ có tin vì đúng theo một lập trường.
7.  Chớ   có   tin  vì  đánh   giá   hời   hợït những dự kiện.
8.  Chớ   có   tin  vì  phù   hợp với   định kiến của mình.
9.  Chớ   có   tin  nơi   xuất phát   có   uy quyền.
10. Chớ có tin vì bậc Sa Môn là Đạo sư của mình v.v..‛.
Có 10 điều  đức Phật đã dặn bảo mọi người đừng  có  tin những  điều  giáo  pháp  dạy  không thực tế, không cụ thể, không rõ ràng, đối với sự cứu cánh giải thoát.
Kinh sách tưởng giải đã không xác định mục đích giải thoát  cụ  thể rõ ràng  như chân lí Diệt Đế của Phật Giáo Nguyên Thuỷ. Mà chỉ dùng  những  từ  mơ  hồ,  trừu  tượng,  hư  tưởng,



không  cụ  thể,  không  thực  tế  như:  Phật  Tánh, Tánh Giác, Tánh Thấy, Tánh Nghe, Tánh Biết
v.v..

Con người khổ là vì năm pháp dục tăng thịnh  lẫy  lừng;  vì  năm  triền  cái  được gọi  là chướng ngại pháp;  và  vì thập  thất  kiết sử v.v.. Sự  kiến  tánh  thành  Phật;  sự  niệm  Phật  cầu vãng sanh Cực Lạc Tây Phương; sự niệm chú có thần  thông  của  Mật  Tông thì đâu  có  đối  trị  và đoạn diệt được năm dục tăng trưởng,  thập thất kiết sử  và  năm  triền  cái.  Cho nên,  tu  theo  ảo tưởng sẽ dẫn đến một hướng khác, hướng ảo tưởng. Vì thế, đối với năm dục trưởng dưỡng và năm  triền  cái  càng  tăng  trưởng mạnh mẽ  hơn, nên cuộc sống của họ tiện nghi đầy đủ, chùa to Phật lớn chứng minh cho các bạn biết những tu sĩ  này  đang  chạy  theo  dục  lạc  thế  gian  danh lợi, ăn  ngủ  phi  thời,  họ  sống  chẳng  khác  như người thế tục, chỉ có y áo và chiếc đầu cạo trọc.
Vậy  các  bạn  hãy  lắng  nghe đức  Phật  dạy:
‚Này Vàsettha, có năm pháp  khiến  dục  lạc tăng thịnh, năm pháp này được  xem là sợi dây  chuyền,  sợi dây  thắng trong  giới  luật của  bậc  Thánh. Thế  nào  là  năm?  Những sắc  pháp  do  mắt thấy cảm  nhận  khả  ái, mỹ  miều, thích thú,  hấp dẫn,  câu  hữu  với



dục,  ái   lạc;   những   tiếng   do   tai  cảm nhận..., những vị do lưỡi cảm nhận..., những xúc do thân cảm nhận, khả ái mỹ miều, thích thú, hấp dẫn, câu hữu với dục, ái dục. Này Vàsettha. Năm pháp khiến dục lạc tăng thịnh  ấy, được  xem  là sợi dây chuyền,  sợi dây  thắng  trong  giới  luật  của bậc Thánh. Này Vàsettha, năm pháp khiến dục lạc tăng thịnh ấy. Các Bà La Môn tinh thông ba  tập  Vệ   Đà  vẫn  chấp trước mê đắm  bị  trói buộc,  không thấy nguy  hiểm của   chúng,   không nhận   thức sự   không thoát  ly  của  chúng,   đã  tận  hưởng năm pháp ấy‛.
Đọc  đoạn kinh này  các  bạn  nên  đem các tu  sĩ  hiện  giờ  ra so sánh  với  các  tu  sĩ  Bà  La Môn  trong  thời  đức  Phật  thì các  bạn thấy  rất rõ những tu sĩ hiện giờ đâu có khác gì những tu sĩ  Bà  La  Môn,  mặc  dù   trong  số  họ  có  nhiều người đạt học vị cao, thông tam tạng kinh điển, nhưng  họ  đều  bị  năm  dục  trưởng  dưỡng  tăng thịnh đã xỏ mũi. Vì thế, họ chạy theo danh lợi, dục  lạc,  luôn  luôn  bị  năm  triền  cái  tác  độâng làm chướng ngại pháp, khiến cho họ khổ sở vô cùng, vô tận, không bao giờ dứt như đoạn kinh trên đã dạy.



Đây, các  bạn hãy  lắng  nghe đức  Phật  quở trách các vị Bà La Môn trong thời ấy: ‚Này Vàsettha, những Bà La  Môn tinh thông ba tập Vệ Đà loại bỏ những pháp tác thành người  Bà  La  Môn,  tuân theo  những  pháp không tác  thành người  Bà  La  Môn,  chấp trước mê  đắm,  bị  trói buộc  không thấy nguy hiểm của chúng, không nhận thức sự không thoát  ly  của  chúng,  tận  hưởng chúng  bị  trói buộc  bởi  sự  trói buộc  của dục lạc,  sau khi  thân  hoại  mạng chung  sẽ cộng trú với Phạm thiên, thật không có sự kiện ấy”.
Kính   thưa  các  bạn!  Đọc  đến đoạn kinh này các bạn thấy rất rõ những tu sĩ hiện giờ không  khác  gì những  tu  sĩ  Bà  La  Môn.  Họ đã ném  bỏ  giáo  pháp  của  đức  Phật,  để   rồi  kiến giải Phật pháp theo kiểu học giả, và chấp nhận giáo  pháp  của  ngoại  đạo, còn  gọi giáo  pháp  đó là pháp môn Tối thượng thừa. Do đó, các bạn thấy  chùa  to  Phật  lớn  mọc  lên  như  nấm  khắp nơi,  làm  hao  tốn  tiền  của  Phật  tử  biết  bao nhiêu, kể  sao cho hết. Họ sống chạy theo danh lợi, dục  lạc  thế  gian,  ăn  ngủ  phi  thời.  Họ  là những  tu  sĩ  phá  giới,  phạm  giới,  bẻ  vụn  giới. Sau khi thân  hoại  mạng  chung  họ  thọ  lấy  sự



khổ đau vô cùng, vô tận, vì thế họ làm sao cộng trú với trạng thái giải thoát cho được.
Đó là một sự lầm lạc rất lớn của tu sĩ Phật giáo hiện nay, không khác gì sự lầm lạc của Bà La  Môn  trong  thời  đức   Phật  ngày  xưa.  Cho nên,  bài  kinh này  đã  xác  định và  vạch  ra một sự  thật  để  làm  sáng  tỏ  sự  sai  lầm  của  một  số kinh sách tưởng giải ngày nay, để nhắc nhở Tăng sĩ và mọi người cần phải cảnh giác khi bước  vào  đường  tu.  Vì  nhân  tu  sai  một  ly  thì đạo quả sẽ  xa đi ngàn dặm!!!
Cho nên, các bạn lưu ý: Đừng nghe những gì họ nói mà hãy thấy những gì của họ đã làm.
Đây, các bạn hãy nghe tiếp đức  Phật dạy:
‚Này  Vàsettha có  năm  triền  cái  được  gọi là chướng ngại, cũng được gọi là triền cái, cũng  được gọi là  màn  che, cũng  được gọi là triền phược trong giới luật của bậc Thánh. Thế  nào  là  năm?  Dục ái,  sân  ái, hôn  trầm, thùy  miên ái,  trạo hối  ái,  nghi ái.   Này   Vàsettha,  các   Bà   La   Môn tinh thông ba  tập  Vệ   Đà  bị  chướng ngại,  bị triền phược,  bị  che  đậy  v.v..  Bị trói buộc bởi  năm triền cái  này,  sau  khi  thân họai



mạng chung sẽ cộng trú với Phạm thiên. Thật không thể có sự kiện ấy xảy ra!‛.
Đọc  đoạn kinh này  chúng  ta  thấy  rất  rõ đa số các vị tu sĩ thời nay đang bị trói buộc bởi năm  triền  cái  này,  vì  vậy  con đường  tu  hành giải  thoát  của  họ  làm  sao có  được.  Phải  không các bạn?
Bài  kinh này  đã  xác  định rõ  ràng  không thể ai phủ nhận được cái sai của họ. Bởi vì một sự  thật  hiển  nhiên  đang bày  ra trước  mắt  mọi người.  Cho  nên,  ai  cũng  chứng  kiến  thấy  rõ ràng tu sĩ hiện giờ đang chạy theo dục lạc và hưởng thụ danh lợi thế tục.
Các  bạn  hãy  nghe  tiếp  đoạn kinh này:
‚Này  Vàsettha, Ngươi  nghĩ  thế  nào? Ngươi có  nghe  những  Bà  La  Môn niên cao  lạp trưởng,  tôn sư và đại tôn sư cùng nhau  nói chuyện  không?  Phạm  thiên có  ái  dục hay không ái dục?
- Thưa Tôn  giả  Gotama, không có  ái

dục.




tâm.



- Có hận  tâm  hay không hận tâm?

-Thưa Tôn  giả  Gotama, không có  hận


- Có sân tâm hay không sân tâm?






tâm.

- Thưa Tôn giả  Gotama, không có  sân


-  Có    nhiễm   tâm   hay   không nhiễm

tâm?

-  Thưa Tôn  giả  Gotama,  không có nhiễm tâm.
- Có tự tại hay không có tự tại?

- Thưa Tôn giả Gotama, có tự tại.

- Này Vàsettha Ngươi  nghĩ thế nào các Bà  La  Môn tinh thông  ba tập  Vệ  Đà  có  ái dục hay không ái dục?‛.
Đọc  đoạn kinh trên  các  bạn  thấy  rất  rõ ràng  đức  Phật  đã  nêu  lên  mục  đích  giải  thoát cụ thể không có mơ hồ không có trừu tượng, không  có  ảo  giác.  Đó  là  ‚tâm  không  ái  dục‛. Như vậy ái dục là chân lý thứ hai của đạo Phật để  xác định nguyên  nhân sinh  ra muôn sự đau khổ của chúng sanh nên gọi là  ‚Tập Đế‛. Tập đế là nơi tập hợp mọi sự khổ đau.
Đoạn kinh này cũng  xác định rõ ràng đức Phật đã hết ái dục. Bà La Môn còn ái dục. Như vậy  tu  sĩ  nào  còn  ái  dục  và  sống  phi  Phạm hạnh,  phạm  giới,  phá  giới,  bẻ  vụn  giới,  sống như vậy thì làm sao cộng  trú  với  Phạm Thiên, với sự giải thoát được. Phải không các bạn?



Cho nên, nói tất cả pháp đều dẫn về một mục đích giải thoát thì không thể có được, như trong bài kinh này đức  Phật đã  xác định, sống không  đúng  giới  luật  thì không  bao giờ  có  sự giải thoát chân thật.
Muốn  thấu  rõ  sự  đúng  sai  của  tu  sĩ  thời nay  chúng  ta  hãy  lắng  nghe  đức   Phật  dạy:
‚Này  Vàsettha,  ở    đời các  Bà   La  Môn  có tinh thông ba  tập  Vệ  Đà,  khi  các  vị  ngồi (với  sự  tự  tin) thật sự  là  đang  chìm  trong bùn  lầy  và  khi  đang  chìm  trong  bùn  lầy, phải sống trong  thất vọng, lầm tưởng rằng đã đến cảnh giới an lạc hơn. Do vậy đối những  Bà  La  Môn  tinh thông ba  tập  Vệ Đà,  sự  tinh thông ấy  được  gọi là  bãi  sa mạc không có nước, sự tinh thông ấy được gọi là  rừng  rậm không có  đường  lối,  sự tinh thông cũng được gọi là sự bất hạnh‛.
Kính   thưa  các  bạn!  Đọc  đoạn  kinh trên đây,  nó  đã   xác  định cho chúng  ta  biết  rằng: Các học giả thông suốt tam tạng kinh điển, thuyết  giảng  như  gió  thổi,  mây  bay, nhưng  sự tinh thông  ấy  được  gọi sa mạc  không  có  nước, sự tinh thông ấy được gọi là rừng rậm không có đường lối, sự tinh thông ấy cũng được gọi là sự bất hạnh. Bởi vậy, kinh sách tưởng giải mà các



vị ấy biên soạn ra là một thứ bánh vẽ, bánh giấy.  Không  giúp  ích cho con người  lợi lạc  mà còn dẫn dắt con người vào thế giới ảo tưởng, sống  mê  tín lạc  hậu.  Có  đúng  như  vậy  không các bạn?
Tóm lại, trong thời đức Phật đã có những Bà La Môn cho tất cả pháp môn là mọi con đường  đều dẫn  đến  một  địa điểm cứu  cánh,  tư tưởng ấy đã được truyền thừa đến ngày nay và đang phát triển mạnh. Đó là kinh sách phát triển  sau thời  đức  Phật  (84.000 pháp  môn  của các hệ phái tưởng tri biên soạn…).
Ngày  xưa, đức  Phật  đã  dẹp bỏ  những  tư tưởng sai lầm này. Ngài đã vạch ra rất rõ ràng, nhưng  từ  khi Ngài  mất  các  Tổ  Bà  La  Môn  đã khéo dìm mất những lời dạy này của Ngài rồi biến  dầàn   thành  giáo  pháp  của  Bà  La  Môn  đa thần ảo tưởng.
Hôm nay  đủ   duyên   chúng  tôi   dựng lại những  gì  của  đức   Phật  đã   dạy,  để   cho  mọi người  đến  với  đạo  Phật  mà  không  còn  bị  tà giáo ảo tưởng đa thần lừa đảo. Những tư tưởng ảo  giác  đều  cho rằng  tất  cả  giáo pháp  tu  hành là  những chiếc bè sang sông, là  phương tiện di chuyển,  là   mọi  con  đường  dẫn  đến  một  địa



điểm,  là   ngón  tay  chỉ  mặt  trăng  v.v..  thật  là một sự hiểu biết lầm lạc rất đáng thương!!!
Chúng  tôi  tin rằng  khi các  bạn  đọc xong lời  chú  giải  này  thì đối  với  những  loại  kinh sách tưởng tri như thế sẽ không còn có thể lừa đảo  các  bạn  được nữa.  Thân  thương  chào  các
bạn.

Kính  ghi
Thích Thông Lạc



TỪ BỎ TÂM THAM


LỜI PHẬT DẠY

‚Điều này đã được Thế Tôn nói đến, đã được bậc A La Hán nói đến, và tôi đã  được  nghe:  ‚Này  các  Tỳ  kheo, hãy  từ  bỏ  một  pháp.  Ta  bảo  đảm  cho các  Ngươi  không có  tái  sanh.  Thế  nào là một pháp? Tham, này các Tỳ kheo! Là một pháp các Ngươi  hãy từ bỏ, Ta bảo  đảm  cho  các  Người  không đi  tái
sanh‛.
(Kinh Thuyết Như Vậy, trang 413, Chương I, Tập Một Pháp)


CHÚ GIẢI:
Kính  thưa  các  bạn!  Đọc qua lời  Phật dạy trên đây  chúng  ta có đặt  trọn  lòng tin nơi lời dạy này hay không?
Riêng chúng tôi khi tu tập Thiền Đông Độ bị  bế  tắc,  không  biết  đường  tiến  tới  nữa,  nên đọc  được lời dạy  này  chúng  tôi  nổ  lực  hằng



ngày  tu  tập  với  câu  tác  ý:  ‚Tâm như  đất  ly tham,  sân,  si cho thật sạch,  vì tâm  tham, sân,  si là  ác  pháp,  là  đau  khổ”.  Khi tác  ý mỗi lần như vậy nếu có điều gì khiến tâm khởi lên tham, sân, si  là  chúng tôi quyết  định dừng lại một cách kiên cường dũng mãnh, không để một  phút  giây  tham,  sân,  si  trong  tâm  mình tác  động.  Do đặt  trọn  niềm  tin nơi  những  lời Phật  dạy,  vì  thế,  chúng  tôi  nhiếp  phục  tâm mình một cách dễ dàng, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức.
Trong  lời dạy này  chỉ  cần  có  “từ  bỏ  tâm tham‛ là  chấm  dứt  tái  sanh luân  hồi.  Nhớ  lời dạy lời dạy ấy nhất  là  có sự quả  quyết  của đức Phật:  ‚Ta bảo  đảm  cho các  Ngươi‛.  Vì  thế, sáu  tháng  trời  chúng  tôi  chuyên  cần  tu  tập  từ bỏ  tâm  tham,  sân,  si,  đúng  pháp  như lý  tác  ý, thế  là  chúng  tôi  đã  thành  tựu  đạo  giải  thoát, làm chủ sanh tử, chấm dứt luân hồi như lời đức Phật đã bảo đảm.
Bởi  vậy  bài  kinh này  lấy  tên  là  Tập  Một Pháp  trong  Tập  Kinh Phật  Thuyết  Như  Vậy. Để  bảo  đảm  lời  dạy này,  đức  Phật  đã đọc  một bài kệ ngắn gọn:
‚Với tham bị tham đắm



Chúng sanh đi ác thú (tái sanh) Bậc thiền quán chánh trí
Từ bỏ tham  ái ấy

Từ bỏ không bao giờ

Trở lại đời này nữa‛

Kính  thưa các bạn! Vậy tâm tham ái là gì? Tham  là  sự  tham  lam,  ham muốn,  thường
con người  ai  cũng  có  tâm  tham  lam  và  ham
muốn: nhưng  có người tham muốn nhiều, lại có người  tham  muốn  ít. Muốn  từ  bỏ  tâm  tham muốn là các bạn nên lưu ý từng hành động nhỏ nhặt  của  các  bạn như:  ăn,  uống,  ngủ  nghỉ,  vui chơi, giao  tiếp  với  bạn bè  v.v.. khi muốn  từ  bỏ tâm tham muốn các bạn phải xem xét kỹ lưỡng từ  cái  ăn,  cái  mặc,  cái  vui chơi xem coi nó  còn tham ăn, tham ngủ, tham nói chuyện không?
Ăn  ngủ  và  nói  chuyện  là  tướng  tham  sẽ hiện nơi đó. Khi tướng tham còn hiện nơi đó  là tâm  các  bạn chưa thanh  tịnh,  tâm  chưa thanh tịnh dù các bạn có muốn tu pháp nào đi nữa thì các  bạn cũng  đều  là  tu  sai  pháp,  tu  lạc  đường cả.  Do đó,  sự  tu  tập  của  các  bạn  chỉ  uổng  công mà thôi.



Bởi vậy, khi tu tập từ bỏ tâm tham thì các bạn nên xem mình  ưa thích ăn cái này, cái kia không?  Nếu  còn  thích  ăn  cái  này,  cái  kia thì tâm các bạn còn tham ái. Biết tâm còn tham ái thì các bạn phải cố gắng nhiếp phục tâm mình để từ bỏ tâm tham ăn, tham uống, tham ngủ nghỉ  phi  thời.  Khi từ  bỏ  được tâm  tham  ăn  là các bạn không ăn uống phi thời, không ăn uống lặt vặt, đúng giờ thì ăn, không đúng giờ thì không  ăn.  Và  không  bao giờ  thèm  ăn  cái  này hay  thèm  ăn  cái  kia.  Như  vậy  các  bạn  đã  lìa hay từ bỏ tâm tham ăn.
Trong  giới luật Phật có giới cấm không ăn phi thời. Không ăn phi thời là đức hạnh ly tâm tham  của  một  vị  tu  sĩ. Thế  mà  giới này  các  tu sĩ Phật giáo ngày nay đều vi phạm ăn uống phi thời,  các  thầy  còn  tâm  tham  ăn  chưa  từ  bỏ. Chưa từ bỏ tâm tham ăn mà muốn kiến tánh thành  Phật,  thì Phật  đó  là  Phật  còn  tham  ăn ư! Vậy  mà  muốn  sau khi chết  được  trực  vãng Tây Phương Cực Lạc. Chả lẽ  cõi Cực Lạc đó  lại dung  chứa  những  tâm  tham  dục  ăn  uống  phi thời  ấy  sao?  Những  pháp  môn  này  tu  hành mong cầu  tha  lực  ảo  tưởng  như  vậy  thì không bao giờ có giải thoát thật sự, phải không các bạn?



Bài  kinh Tập  Một  Pháp  đã  xác  định rõ ràng như vậy, không còn có một giáo pháp nào lừa đảo chúng ta được nữa. Không lìa tâm tham mà muốn chứng quả A La Hán, muốn kiến tánh thành Phật và muốn trực vãng Tây Phương Cực Lạc, thì đó là giấc mộng các bạn ạï!
Đây là con đường từ bỏ tâm tham đưa đến làm  chủ  sanh  tử,  chấm  dứt  luân  hồi  mà  đức Phật đã thường nhắc nhở chúng ta: ‚Này Vàsettha, nay ở  đời đức Như  Lai xuất hiện là  bậc  A  La  Hán,  Chánh kiến  tri,  Minh hạnh   túc,   Thiện  thệ   thế   gian  giải,   Vô thượng  sĩ,   Điều   ngự   trượng   phu,   Thiên nhân  sư, Phật,  Thế  Tôn,  đức  Như  Lai sau khi  tự  mình chứng ngộ  với  thượng trí, thế gian  này  với  Thiên  giới,  Ma   giới,  Phạm thiên giới gồm cả thế giới này với Sa Môn, Bà  La  Môn, Trời,  Người  lại  tuyên  thuyết điều Ngài đã chứng ngộ, Ngài thuyết pháp sơ  thiện, trung  thiện,  hậu thiện đầy  đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn  toàn  đầy  đủ  thanh tịnh‛.  (Trường  Bộ Kinh  tập  1, trang 425 kinh  Tevija thuộc  tạng  kinh Việt Nam do Hòa Thượng Minh Châu dịch).
Khi được nghe đức  Phật  dạy đạo đức  làm
Người,  làm  Thánh  sống  không  làm  khổ  mình,




0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!