Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

những lời gốc phật dạy - tập 4-18



Nhân là  con người; từ là  lòng  yêu thương. Cho nên:  ‚Miệng  thường  nói lời  nhân  từ‛, tức  là  nói  lời  yêu  thương  đến  với  mọi người  và với mọi loài chúng sanh. Lời nói yêu thương là lời ái ngữ. Lời nói ái ngữ là lời nói ôn  tồn, nhã nhặn,  êm  dịu, thanh  lịch, lịch sự  có  văn  hóa nhẹ  nhàng,  an ủi  mọi  người,  mọi  loài  vật  khi gặp tai nạn, bệnh tật khổ đau hoặc những điều làm cho khiếp đảm, sợ hãi.
Sống  trong  cuộc  đời  này  người  người  đối xử với nhau đều  dùng lời nói nhân từ thì hạnh phúc  biết  bao; thì làm  sao có  thù  hận,  có  tị hiềm, ganh ghét v.v..
Lời   nói   dối   là   lời   nói   không   thật,   nói không  đúng  sự  thật  là  lời  nói  không  nhân  từ, lời  nói  không  có  ái  ngữ,  lời  nói  làm  mất  lòng tin của mọi người.
Lời  nói  li gián  là  lời  nói  khiến  cho mọi người  sống  không  hòa  hợp, không  đoàn  kết, khiến  cho mọi người  thù  hận  ganh  ghét  nhau, đó là lời nói không nhân từ, lời nói hung ác, lời nói gây chia rẽ, gây đau khổ cho người khác.
Lời  nói  thêu  dệt  là  lời  nói  trau  chuốt,  là lời  nói  lừa  đảo  người  khác,  lời  nói  như  vậy  là lời nói không nhân từ, lời nói không ái ngữ, lời nói  mà  mọi  người  đều   chê  trách,  lời   nói  ác



khẩu,  lời   nói  hung  ác  mà  người  có  đạo   đức không bao giờ chấp nhận.
Lời nói hung dữ  là lời nói chưởi mắng, mạ lị, mạt  sát,  hăm  dọa,  dọa nạt  người,  làm  cho người  khác  khiếp  đảm  sợ  hãi.  Đó  là  những  lời nói không nhân từ, không ái ngữ. Làm người, chúng  ta  nên  tránh  xa và  từ  bỏ  nói  những  lời hung ác, kém văn hóa, không đạo đức v.v.. luôn luôn thực hiện lời nói nhân từ, lời nói ái ngữ.
Đức Phật dạy: ‚Ý  thường tâm niệm thương  xót,  không ôm  lòng  thù  hận thêm bớt‛. Trong  cuộc  đời  này  vì lòng  tham  lam  vô độ nên con người sanh tâm ganh đua hơn thiệt, thấy  ai  hơn  mình  thì sanh  tâm  ganh  ghét,  tị hiềm thường thêm  bớt  nói xấu  người,  nói  lời  li gián gây chia rẽ người này với người kia. Cho nên, ý thường tâm niệm thương xót người khác tức  là  lòng  ‚BI‛.   Lòng  bi  là  lòng  thương  xót chúng  sanh,  khi thấy  chúng  sanh  trong  cơn hoạn  nạn  hay  bệnh  tật  khổ  đau  hoặc  đứng trước cái chết sắp đến, chúng ta không thể làm ngơ được.
Cho nên,  chúng  ta  luôn  nhớ  lời  Phật  dạy:
‚Ý  thường tâm  niệm thương xót,  không  ôm lòng thù hận thêm bớt‛. Đó là một tâm niệm thiện,  tâm  niệm  giải  thoát,  tâm  niệm  khiến



mình  và  tất  cả  chúng  sanh  được  an  vui  giải thoát, tâm niệm không làm khổ đau mình, người, cả hai và tất cả chúng sanh; tâm niệm không  hận  thù;  tâm  niệm  buông  xả  tất  cả  các ác pháp; tâm niệm của người có lòng từ, bi, hỷ, xả.  Đó  là  một  tâm  niệm  cao thượng,  một  tâm niệm của những bậc Thánh Hiền.
‚Ý   thường  tâm  niệm  thương xót, không  ôm lòng  thù  hận thêm  bớt‛. Lời  dạy này  chúng  con xin  hằng  ngày  ghi  nhớ  để  sống không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh; để đền  đáp ơn chư Phật; ơn sinh thành dưỡng dục của mẹ cha. Đó là một tâm niệm  đẹp đẽ  và  cao thượng  tuyệt  vời  mà  làm người ai ai cũng cần phải tu học.
Đức   Phật   dạy:   ‚Chỉ   nhận    sự    cúng dường  vừa  đủ‛.  Đây  là  lời  khuyên  của  đức Phật đối với những đệ  tử xuất gia. Khi đi khất thực thì nhận sự cúng dường vừa đủ, không nên tham  nhiều,  không  nên  đòi  hỏi  món  này,  món kia,  ai cho gì mình  ăn nấy, dở ngon không cần, chỉ  ăn  để   sống,  sống  để tu  hành,  chứ  không phải  sống  để ăn.  Sống  để  ăn  tức  là  chạy  theo dục lạc về ăn uống. Vì thế, ăn không phải cần ngon; ăn  không  để  mập,  để  béo,  để  hưởng  thụ tất cả dục lạc trên cõi đời này. Ăn như vậy thì




giống  như  người  thế  gian.  Ăn  uống  mà  giống như người thế gian thì còn nghĩa lý gì là người tu sĩ Phật giáo. Phải không quý Phật tử?
Người tu sĩ Phật giáo ăn để sống như uống một thứ thuốc đắng để trị bệnh đói.
Vì  thế,  người  tu  sĩ  Phật  giáo  ‚Chỉ  nhận sự cúng dường vừa đủ‛.  Đó là lời khuyên của Phật đối với những người đệ tử của Ngài, để những tu sĩ này đều sống ly dục ly ác pháp; để những  tu  sĩ  này  luôn  luôn  sống   trong  hạnh thiểu  dục tri túc;  để  những  tu  sĩ  này  luôn  luôn sống đúng  phạm hạnh. Nhất  là  để  những  tu sĩ đang tu  tập  tại  tu  viện  Chơn Như  hãy  lấy  câu này  làm  lời  răn  nhắc  cho mình  khi ăn  uống cũng  như  khi đi  khất  thực  “Chỉ  nhận  sự  cúng dường  vừa  đủ”. Phật  dạy như vậy xin  tất cả tu sĩ Phật giáo dù ở các hệ phái Bắc tông như: Đại thừa,  Thiền  tông,  Mật  tông,  Tịnh độ  tông  v.v.. Các hệ phái Nguyên thủy như: Nam tông, Khất sĩ v.v.. phải lấy câu này làm phương châm, làm các câu tác ý tự kỷ ám thị hằng ngày để nhắc nhở  tâm  mình  ít muốn  biết  đủ  (thiểu  dục  tri túc). Nhờ đó giới  luật mới nghiêm chỉnh không hề  vi phạm một  lỗi  nhỏ  nhặt  nào;  nhờ  đó  tâm mới ly dục ly ác pháp; nhờ đó tâm mới thanh thản,  an  lạc  và  vô  sự;  nhờ  đó   con đường  tu



hành  của  Phật  giáo  ngày  một  thêm  sáng  lạng;
nhờ đó mới chứng đạt chân lí.

Đức Phật dạy: ‚Giữ  gìn giới  của  Thánh hiền không tổn  khuyết”.  Muốn  hiểu  lời  dạy này,   trước  tiên   chúng  ta   nên   hiểu   giới   của Thánh Hiền là gì? Không tổn khuyết là gì?
Giới  của  Thánh  Hiền  gồm  có:  Ngũ  giới  cư sĩ, Bát  quan trai  giới  cư sĩ, Thập  thiện  giới cư sĩ,  Thập  giới  Sa Di  tăng  ni,  250 giới  tỳ  kheo tăng,  348  giới  tỳ  kheo  ni,  kinh Phạm  Võng, kinh Sa Môn  Quả,  kinh Giáo  Giới  La  Hầu  La
v.v..

Không tổn khuyết là không sức mẻ; là không bẻ vụn giới; là không phạm những giới nhỏ nhặt.
Nghĩa của toàn bộ câu ‚Giữ  gìn giới  của Thánh hiền không tổn  khuyết‛  là  giữ  gìn giới  luật  nghiêm  nhặt  không  hề  vi phạm  một lỗi nhỏ nhặt nào.
Tại  sao lại  phải  giữ  gìn  giới  luật  nghiêm chỉnh như vậy? Vì giới luật là pháp môn ly dục ly ác pháp; vì giới luật là đức hạnh nhân bản - nhân quả sống không làm khổ mình,  khổ người và khổ cả hai; vì giới luật là pháp môn đầu tiên để tu tập thiền định. Nhờ giới luật Thánh Hiền



mà  chúng  ta  tu  tập  mới  có  đủ  Tứ  Thần  Túc; nhờ  có  Tứ  Thần  Túc  mới  nhập  Bốn  thiền  và thực hiện Tam minh;  nhờ thế chúng ta mới làm chủ sanh, già, bệnh, chết và chấm dứt tái sanh luân hồi.
Giới luật Thánh Hiền lợi ích lớn như vậy, thế  mà  người  tu  sĩ  thời  nay tu  theo  Phật  giáo mà   phạm   giới,  phá   giới,   bẻ   vụn   giới,   xem thường giới, vì thế mà phí bỏ một đời tu tập chẳng đạt được gì, uổng thay! uổng thay!!!
Đức Phật dạy: ‚Nhận đạo Thánh hiền quyết  dứt  hết  gốc  khổ‛.  Muốn  hiểu  lời  dạy này chúng ta phải hiểu các từ Thánh Hiền, gốc khổ. Vậy Thánh Hiền gốc khổ nghĩa là gì?
Như chúng ta đã biết đạo Phật có một nền đạo  đức nhân bản –  nhân quả  sống  không làm khổ  mình,  khổ  người  và  khổ  cả  hai.  Vì  thế, Thánh  ở    đây  có  nghĩa  là  người  đã  sống  trọn vẹn đức hạnh nhân bản – nhân quả không làm khổ mình,  khổ  người; còn Hiền ở  đây có  nghĩa là  người  đang  tập  sống  đạo  đức  nhân  bản  – nhân  quả  không  làm  khổ  mình,  khổ  người  và khổ cả hai.
Cho  nên,   lời  dạy:   ‚Nhận   đạo   Thánh hiền  quyết   dứt   hết   gốc   khổ‛  tức  là  chấp



nhận học tập và  rèn luyện đạo  đức nhân bản  - nhân quả sống không làm khổ mình,  khổ người và  khổ  tất  cả  chúng  sanh  thì tất  cả  khổ  của loài người  trên hành tinh này đều dứt  hết. Lời dạy  này  rất  đúng,  nhưng  có  những  người  còn nghi ngờ nên tự hỏi. Tại sao vậy?
Vì không làm khổ mình,  khổ người và khổ tất  cả  chúng  sanh  thì còn  đâu  nỗi  khổ  nữa. Phải không thưa quý vị?
Lời dạy tuy ngắn gọn, nhưng rất đầy đủ ý nghĩa của đạo giải thoát. Nếu ai hiểu mà không làm  đúng  theo  nghĩa  này  thì lời dạy chỉ  là  lời nói suông. Vì thế, lời nói của đức Phật chỉ có những  người  muốn  thoát  ra bốn  nỗi  khổ  của kiếp làm người và những người chứng đạt chân lí thì mới hiểu được nghĩa lý giải thoát này.





CĨ BÂY  PHÁP
HẰNG NGÀY CẦN TU TẬP


LỜI PHẬT DẠY

1- Quán thân bất tịnh.

2- Quán thức ăn bất tịnh.

3- Không say đắm thế gian.

4- Thường nghĩ đến sự chết.

5- Luôn nghĩ đến vô thường.

6- Nghĩ đến  đời  sống  là  khổ và  vô thường.
7- Luôn nghĩ đến khổ và vô ngã.



CHÚ GIẢI:
Câu  thứ  nhất  Phật  dạy:  ‚Quán  thân bất  tịnh”.  Quán  thân  bất  tịnh  là  một  pháp môn triển khai tri kiến như thật về cơ thể con
người.  Cơ thể  con người  uế  trược,  bất  tịnh,  hôi
thối mà con người thường lầm tưởng cơ thể con người  là thanh tịnh, là trong sạch. Vì thế, mọi



người  đều  lao  vào  tâm  sắc  dục,  tưởng  nơi  đó trong sạch lắm, nhưng không ngờ nơi đó  là nơi bất  tịnh  và  khổ  đau  nhất,  là  con  đường  tái sanh  luân  hồi  cũng  tại  nơi  đó.  Cho  nên,  đức Phật muốn vạch trần một sự thật để  mọi người đừng lầm lạc, đừng say mê sắc dục. Vì thế, mục đích quán thân bất tịnh là đối trị tâm sắc dục của  con người.  Bệnh  tâm  sắc  dục  thì trên  đời này   không   ai   tránh   khỏi.   Muốn   thoát   khỏi bệnh này thì đức Phật dạy chúng ta phương thuốc  đối  trị,  đó  là  quán  thân  người  nam cũng như  người  nữ  đều  bất  tịnh,  hôi  thối,  bẩn  thỉu, uế trược, gờm nhớp v.v.. Nhờ quán như vậy tâm mới  không  đắm  nhiễm;  mới  nhàm  chán;  mới ghê  tởm  sắc  dục;  mới  xa lìa  từ  bỏ;  mới  không còn ham thích giữa nam nữ gần nhau; mới thấu rõ  tâm  sắc  dục  mang  đến mọi  sự  khổ  đau bất tận.  Vì có  hiểu  như  vậy  mới  đoạn tận  tâm  sắc
dục.

Nếu   người   nào   siêng   năng   chuyên   cần quán tưởng thân bất  tịnh đến thấu suốt  sự bất tịnh  như thật  thì chắc  chắn  tâm  sắc  dục sẽ  bị đoạn tuyệt.  Tâm  sắc  dục  đoạn tuyệt  thì con đường sanh tử luân hồi mới chấm dứt và không còn  tái  sinh  nữa.  Tâm  sắc  dục  đoạn diệt  thì người  tu  mới  có  đủ đạo  lực  làm  chủ  sanh,  già,



bệnh,  chết.  Nếu  tâm  sắc  dục  còn  dù   như  đất trong tay ta thì không bao giờ có Tứ  Thần Túc và Tam Minh.
Con đường tu theo Phật giáo để đạt được bốn  thần  lực  giải  thoát;  để  chứng  đạt  chân  lí thì tâm  sắc  dục  phải  được đoạn trừ  tận  gốc. Nếu tâm sắc dục chỉ  còn một  chút như trên đã nói  thì con đường  giải  thoát  ấy  không  bao giờ dẫn đến mục đích tối hậu, cứu kính  hoàn toàn.
Cho nên, sự tu tập để diệt trừ tâm sắc dục là  một  điều  cần  thiết  cho con đường  tu  hành giải thoát của Phật giáo.
Câu  thứ  hai  Phật  dạy:  “Quán  thức ăn bất   tịnh‛.  Quán   thức   ăn   bất   tịnh   là   một phương  pháp  triển  khai  tri kiến  hiểu  biết  về thực phẩm bất tịnh như thật. Đúng vậy thực phẩm  bất  tịnh  là  một  sự  thật,  không  ai  còn chối  cãi  được. Nếu  quán  thực  phẩm  bất  tịnh biết  rõ  như  thật  thì sẽ  đối  trị  được tâm  ưa thích ăn uống, ưa thích chạy theo dục lạc về ăn uống. Thường người ở  đời không nhận rõ thực phẩm bất tịnh, thiếu sự sáng suốt nhận định thực  phẩm  bất  tịnh,  vì  thế  họ  còn  cho  thực phẩm là những chất ngon béo, bổ dưỡng cơ thể nên luôn luôn ăn uống để nuôi dưỡng cơ thể cho mập. Họ đâu biết rằng cơ thể này không là họ,



là của họ nên họ sai lầm kiến chấp thân này là của  họ,  là  họ,  vì  thế  nên  đem hết  sức  lực  của mình  ra làm  việc để  phục vụ cho ăn,  ngủ, v.v.. phục  vụ  như  vậy  chẳng  có  ý  nghĩa  gì cao đẹp cho cuộc sống của mình  cả.
Muốn  đối  trị  tâm  tham  ăn  thì phải  quán thực phẩm bất tịnh như trên đã  nói. Quán thực phẩm bất tịnh như thế nào để  nhàm chán, nếu quán  thực  phẩm  bất  tịnh  sơ  sơ  không  thấu triệt, không thấy thực phẩm bất  tịnh như thật thì làm  sao tâm  chúng  ta  sanh  ra nhàm  chán thực phẩm cho được mà không nhàm chán thực phẩm thì làm sao ly tham dục về ăn uống được. Phải không quý vị?
Nhờ quán thực phẩm bất tịnh thâm sâu và thấu  triệt  sự  bất  tịnh  của  thực  phẩm  như thật thì  tâm   chúng   ta   sinh   ra  nhàm   chán   thực phẩm. Nhờ đó  chúng ta ăn ngày một bữa rất là tự  tại  an  nhiên,  không  thấy  đói  khát,  không còn thèm ăn uống gì nữa.
Người  không  quán  thực  phẩm  bất  tịnh, khi gặp thực phẩm thì cũng giống như con mèo gặp   chuột,   tâm  sinh   ra  ham  thích  ăn   thịt, muốn chộp bắt ngay liền, còn người quán thực phẩm bất tịnh sanh ra tâm nhàm chán thực phẩm, khi thấy thực phẩm giống như thấy chất



bẩn của người  bài tiết, nhờ đó  tâm tham  ăn bị diệt. Cho nên đức Phật dạy: ‚người mới tu thì phải  quán  thực  phẩm  bất  tịnh‛, để  giữ  gìn giới  đức ly tham  về  ăn  uống,  không  bị  phạm giới ăn uống phi thời. Quán thực phẩm bất tịnh là  một  phương pháp  tuyệt  vời  trong Phật  giáo. Nhờ  đó  chúng  ta  sẽ  xa lìa  tâm  tham  đắm  ăn uống  của  mình.  Vì  thế,  người  tu  sĩ  Phật  giáo hằng ngày chỉ nên ăn một bữa mà thôi. Sáng chiều thảnh thơi không còn bận tâm lo ăn uống gì cả. Thật là một đời sống nhàn nhã, an vui, thanh  thản,  yên  ổn  mà  người  thế  tục  không bao giờ có được. Có đúng như vậy không quý vị?
Câu  thứ  ba Phật  dạy:  ‚Không   say đắm thế  gian‛.  Thế  gian  là  một  trường  danh  lợi, tiền tài, vật chất và sắc đẹp cám dỗ  mọi người. Vì thế đức Phật khuyên dạy: ‚Không  say đắm thế  gian‛. Bởi  vì  trong  thế  gian  có  nhiều  sự cám  dỗ   như  trên  đã  nói,  sự  cám  dỗ   này  dẫn chúng  ta  vào  chỗ  khổ  đau và  khổ  đau mãi  mãi không  biết  đường  nào  ra, nhất  là  tiếp  tục  tái sanh luân hồi không bao giờ dứt. Người mới tu tập phải cảnh giác tâm mình, tránh xa những pháp cám dỗ  của thế gian, đừng say mê nó, hãy lìa  xa nó,  hãy  từ  bỏ  nó,  hãy  đoạn trừ  nó  v.v..



Nó là ác pháp thường dẫn mọi người đi vào chỗ tối tăm, tội lỗi.
Thế gian là một trường tranh đấu vì danh lợi, vì tiền của tài sản vật chất, vì sắc đẹp phụ nữ  cho nên  cuộc  tranh đấu  ấy  triền  miên  bất tận.  Mục  đích tranh đấu  của  người  thế  gian  là tranh đấu để  sống vì ích kỷ cá nhân, để  bảo vệ sự sống  của  riêng  mình,  vì thế  họ  chà  đạp  lên sự  sống  của  người  khác,  loài  vật  khác;  tranh đấu  để  đạt  danh  lợi hơn  mọi  người,  tức  là  đạt được quyền uy thế lực; đạt được giàu sang tột cùng,  nhà  cao cửa  rộng,  của  cải,  tiền  bạc,  châu báu,  vàng  vòng  nhiều;  đạt  được sắc  đẹp;  đạt được ăn  ngon mặc  đẹp, cao lương  mỹ  vị,  hàng lụa đắt tiền, ngủ nghỉ giường cao rộng lớn niệm êm. Đó là sự cám dỗ ngũ dục lạc thế gian mà người đời thường hay dính mắc, vì thế đức Phật dạy: ‚Không  say đắm  thế  gian‛.  Người  tu  sĩ Phật giáo nên lưu ý lời dạy này và thường nhắc tâm:  ‚Không   nên   say  đắm   các   pháp   thế gian‛. Nhờ có tác ý như vậy tâm mới luôn luôn thanh thản, an lạc và vô sự. Cho nên, tâm còn say  đắm  thì không  bao  giờ  có  sự  giải  thoát chân thật.
Câu  thứ tư  Phật  dạy: ‚Thường  nghĩ  đến sự  chết‛.  Muốn  cho  sự  tinh tấn  siêng  năng



không  biếng  trễ  trên  đường  tu  tập  thì thường quán niệm chết. Thường quán niệm chết cho chúng  ta  biết rằng:  ‚Ngày  nay chúng  ta  còn sống nhưng  ngày mai  sẽ  chết‛. Điều  đó chắc chắn trong tất  cả chúng ta ai  cũng biết, nhưng trong  chúng  ta nào  ai  biết được  ngày  mai  phải rời bỏ thế gian này vào lúc nào? Chắc không ai biết. Phải không quý vị?
Vì các pháp vô thường, thân chúng ta cũng vậy,  sự  vô  thường  không  chờ  đợi một  ai,  một khi nó  đã đến  thì không  từ  bỏ  một  người  nào cả. Cho nên, thường quán niệm chết khiến cho chúng  ta  tinh cần  siêng  năng  tu  tập  lại  càng tinh tấn  siêng  năng  tu  tập  hơn.  Nếu  chúng  ta không chịu tu tập quán tưởng niệm chết thì sự siêng  năng  tinh cần  mất  đi,  chỉ  để   lại  cho chúng ta một sự lười biếng, một sự dễ dãi biếng nhác,  tu  tập  cầm  chừng  lấy  có  thì sự  tu  tập chẳng tới đâu cả.
Vả lại, nếu chúng ta không tu tập khi chết rồi còn biết có được thân người nữa hay không? Bởi vậy quán niệm chết rất cần thiết cho người tu  theo  Phật  giáo.  Nếu  không  quán  niệm  chết thì chúng ta  dễ  sanh ra tâm dễ  dãi, lười  biếng thì con đường tu  sẽ  không  bao giờ  đạt  tới  đích giải thoát của Phật giáo.



Cuộc đời tu hành của chúng ta theo Phật giáo nếu không quán niệm chết là chúng ta sẽ sinh tâm lười biếng như trên đã nói, tu cầm chừng,  tu  lấy  có  thì một  đời  tu  hành  chỉ  có hình  tướng mà thôi, còn sự giải thoát thì không bao giờ có, đó là một sự thiệt thòi rất lớn.
Câu  thứ  năm  Phật  dạy: ‚Luôn  nghĩ  đến vô  thường‛. Trong  thế gian này không có một vật gì là thường hằng bất biến, luôn luôn biến đổi từng phút từng giây, vì vậy sinh,  già, bệnh, chết  là  lẽ  đương nhiên  của  một  con người  sinh ra  trong  thế  gian  này.  Nếu  chúng  ta  không thấy  các  pháp  vô  thường  thì tâm  chúng  ta  dễ sanh  ra dính  mắc  và  chấp  đắm  các  pháp,  do dính  mắc  và  chấp  đắm  các  pháp  nên  làm  sao tâm  chúng  ta  ly  dục ly  ác  pháp  được, không  ly dục ly ác pháp được thì làm sao có được  sự giải thoát. Không có được  sự giải thoát thì chúng ta sống sẽ làm khổ mình,  khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Phải không quý vị?
Vì thế, đức Phật dạy: ‚Luôn  nghĩ  đến vô thường‛.  Luôn  nghĩ  đến  các  pháp  vô  thường thì tâm chúng ta buông xả sạch. Tâm buông xả sạch  thì ngay  đó  là  chân  lí của  đạo  Phật;  thì ngay đó  là một thân tâm thanh thản, an lạc và



vô sự; thì ngay đó  là cực lạc, thiên đàng tại thế gian này.
Trong cuộc đời tu hành của chúng ta theo Phật giáo, chỉ cần quán xét hiểu biết và thấu rõ các  pháp  thật  sự  là  vô  thường,  là  khổ  đau. Do các  pháp  vô  thường  nên  không  có  pháp  nào  là ta, không có pháp nào là của ta, không có pháp nào là bản ngã của ta. Nhờ hiểu thấu như vậy chúng  ta  mới  hoàn  toàn  giải  thoát,  tuy  còn sống  trong  thế  gian,  còn  sống  trong  qui  luật nhân quả, nhưng đã ra ngoài qui luật nhân quả, tức  là  ra  ngoài  vũ  trụ,  đứng  ở    một  góc  trời thênh thang, chẳng còn bị bất cứ một qui luật nào chi phối thân tâm được.
Bởi  vậy,  ‚Luôn  nghĩ  đến  vô  thường‛  là lợi ích rất  lớn cho kiếp  làm người, vì nghĩ  đến các pháp vô thường nên tâm chẳng còn dính mắc,  chẳng  còn  sợ  hãi  buồn  rầu  thương  nhớ v.v..  Đạo  Phật  chỉ  tu  tập  có  bấy  nhiêu  pháp quán  như  vậy  mà  cứu  kính  giải  thoát  rõ  ràng và cụ thể.
Câu thứ sáu Phật dạy: ‚Nghĩ đến đời sống là khổ và vô thường‛. Đời người là vô thường,  là  khổ  đau.  Đó   là  một  sự   thật  mà không thể có ai phủ nhận được. Vì thế chúng ta thường  quán  xét  thì tâm  chúng  ta  sẽ  sanh  ra



nhàm chán. Và khi nhàm chán thế gian thì chúng  ta  mới  có  tinh tấn  tu  hành.  Nếu  không thấy  đời  là  vô  thường  là  khổ  đau thì chúng  ta khó mà lìa nó được, mà không lìa các pháp thế gian thì tu hành chẳng đến nơi đến chốn.
Đời  sống  con người  là  khổ,  là  vô  thường, đó  là  một  sự  thật,  nhưng  trên  đời  này  có  mấy ai  hiểu  được như  vậy.  Vì  không  hiểu  được như vậy  nên  mọi  người  đều  cho đời  sống  là  hằng còn,  là  hạnh  phúc.  Cho  nên,  mọi  người  lầm tưởng các pháp là thật rồi đua nhau chạy theo ngũ dục lạc: lợi, danh, sắc, thực, thùy, mong đạt cho  được nó,   nhưng   nào   ngờ   các   pháp   vô thường,  vì  các  pháp  vô  thường  nên  càng  chạy theo chúng thì càng gặp nhiều khổ đau. Sống trong đau khổ mà không biết, do đó  sống trong tâm điên  đảo, tưởng điên  đảo, tình điên đảo mà không   hay,  cứ   loanh   quanh  bám   mãi   trong tham vọng, chạy theo ngũ dục lạc mà muốn tìm chân  hạnh  phúc  thì  làm  sao  có   được. Phải không  quý  vị?  Ngũ  dục  lạc  là  ảo  ảnh  hạnh phúc, là bóng dáng của tâm tham, sân, si. Cho nên, chỉ có những người không thấu rõ đời sống con người  là  khổ  đau, các  pháp  là  vô  thường nên  mới  còn  say mê  và  đắm  đuối  ham  thích chạy theo nó.



Đức  Phật  xác  định:  ‚Con  người   vì  vô minh không thấy các  pháp  vô  thường như thật nên sinh  tâm chấp đắm, dính mắc, do chấp đắm, dính mắc nên tâm tham,  sân, si lẫy  lừng  khó  ngăn  và  khó  diệt‛.  Từ  tâm tham, sân, si đó mà con người sống trong ác pháp luôn làm khổ mình,  khổ người và khổ tất cả  chúng  sanh.  Chính  vì  người  ta  không  thấu rõ như thật đời sống con người là khổ đau và thường thay đổi như mây giữa trời, như sương buổi sáng vì thế mà khổ đau lại chồng chất lên khổ đau của kiếp làm người.
Chỉ  có  những  người  nào  luôn  quán  chiếu
‚Nghĩ  đến  đời sống  là  khổ  và  vô  thường‛ và thấy biết rõ như thật thì người ấy thoát mọi khổ  đau. Vậy  chúng  ta  luôn  luôn  ghi  khắc  lời dạy này  của  Phật  thì cuộc  đời  này  mới  tìm ra chân hạnh phúc.
Câu  thứ  bảy  đức  Phật  dạy:  ‚Luôn  nghĩ đến khổ và vô ngã‛. Hằng ngày chúng ta luôn nghĩ  đến  sự  khổ  đau của  kiếp làm  người  và  sự vô ngã của thân tâm và các pháp. Vì thân tâm con người và các pháp không có vật gì tồn tại mãi,  tất  cả  có  sinh   thì phải  có  diệt, do  đó chúng ta đừng để tâm dính mắc chấp đắm thân tâm  và  các  pháp  thì mới  có  sự  giải  thoát,  mới



có sự ra khỏi biển đời đầy khổ đau, chừng đó chúng ta  mới hiểu ra đời  người  chẳng có  gì cả, chỉ  là  một  trò  ảo  ảnh  của  nhân  quả  dựng lên, hết tuồng này đến tuồng nọ.
Lời  đức  Phật  dạy:  ‚Luôn  nghĩ   đến  khổ và vô ngã‛. Chúng ta nên ghi nhớ mãi đừng quên lời dạy này. Phải không quý vị? Vì có ghi nhớ lời dạy này chúng ta mới cố gắng buông xả sạch thế  gian  chỉ  còn lại  một  tâm thanh  thản, an lạc và vô sự mà không có một ác pháp nào động  được tâm  ta.  Luôn  nghĩ  đến  khổ  và  vô ngã  thì chúng  ta  buông  xuống  và  sạch  tất  cả lòng dục và các ác pháp.
“Buông xuống đi! Hãy buông xuống đi! Chớ giữ làm chi có ích gì?
Thở ra chẳng lại còn chi nữa,

Vạn pháp   vô thường buông xuống đi!”





CĨ SÁU OAI NGHI NGƯỜI
TU SĨ  CẦN PHÂI GIỮ GÌN VÀ TU TẬP


LỜI PHẬT DẠY

‚Người  tu sĩ mới vào phải tu tập:

1/ Khi  đi biết mình đi.

2/ Khi  đứng biết mình đứng.

3/ Khi  liếc ngó hai  bên.

4/ Khi  co duỗi cúi ngước.

5/ Khi  đắp y, mang  bát.

6/ Khi ăn uống thuốc men đều phải nhẹ  nhàng phù  hợp với  oai  nghi,  phải khéo  tìm phương   tiện  từ  bỏ  năm ấm cái,   cho  đến   đứng,   ngồi,   nằm, thức, ngủ,  nói  năng hay  im lặng  đều  phải nhiếp  tâm  không cho  tán  loạn.  Ấy   là những  oai  nghi  mà  các  thầy Tỳ  Kheo
cần phải giữ gìn đầy đủ’’.



CHÚ GIẢI:



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!