Thứ Hai, 12 tháng 8, 2013

những lời gốc phật dạy - tập 4-17



Kính  thưa  các  bạn!  Nếu  các  bạn xem xét kỹ  lại  cho tận  cùng  thì bài  kinh Nguyên  thủy này sẽ giúp các bạn nhận xét những kinh sách phát  triển  sau thời  đức  Phật  nhập  diệt là  loại kinh sách  đã   bị  Bà  La  Môn  hóa  mang  nặng tính ảo tưởng thế giới siêu hình  đa thần giáo từ các  bộ  ảo  thư  Vệ  Đà  tưởng  giải  biên soạn  rồi mạo danh kinh Phật!  Để biến Phật  giáo thành Thần giáo. Thần giáo là một tôn giáo mê tín, thường  lường  gạt  người,  để  làm  giàu  trên  mồ hôi nước mắt của người khác.
Muốn  tu  hành  cho có  kết  quả  giải  thoát thật  sự  thì xin  các  bạn  hãy  nghiên  cứu  kinh sách Nguyên Thủy, nhưng đều phải dựa vào bậc tu  chứng  đạt  chân  lí.  Vậy  các  bạn  hãy  lắng nghe  đức   Phật  dạy:  ‚Vậy   này,  Magandiya, hãy  thân cận  các  vị  chơn  nhân.  Thời  này Magandiya. Ông sẽ được nghe diệu pháp, này Magandiya, do người được nghe diệu pháp, thời này Magandiya, Ông sẽ sống đúng  chánh pháp  và  tùy  pháp.  Này Magandiya, do ông sống đúng chánh pháp và  tùy  pháp,  thời  này  Magandiya, ông  sẽ tự   mình  biết,   sẽ    tự   mình  thấy: đây   là những bệnh chướng, những cục bướu, những    mũi    tên.    Ở      đây,    những    bệnh



chướng, những  cục  bướu,  những  mũi  tên được  trừ diệt,  không  có  dư  tàn.  Do  chấp thủ được diệt ở  Ta, nên hữu diệt, do hữu diệt,  sanh  diệt,  do sanh  diệt  già  chết,  sầu bi,  khổ  ưu,  não được  diệt  trừ. Như  vậy  là sự đoạn  diệt của toàn bộ khổ uẩn này‛.
Trong  đoạn kinh này  đức  Phật  dạy chúng ta  nên  gần  gũi  thân  cận  một  người  tu  chứng đạo. Vậy hiện giờ tất cả các Thầy tu theo Phật giáo có người  nào tu chứng đạo chưa? Có  người nào giữ giới nghiêm chỉnh chưa?
Nếu  chưa có  người  tu  chứng  đạo  mà  các bạn theo  họ  tu  tập  như  vậy  thì các  bạn  sẽ  bị lừa  đảo,  chỉ  uổng  công  sức  tu  tập  và  một  đời của  các  bạn  tu  tập  chẳng  ra gì, uổng  công,  phí
sức.

Ở  đây, kinh dạy chỉ có người tu chứng mới dạy các bạn đúng chánh pháp, còn những người tu  chưa  chứng  mà  dạy  các  bạn  tu  hành  thì chánh  pháp  cũng  thành  tà  pháp.  Vì  họ  đâu  có kinh nghiệm  tu  hành  nên  giảng  dạy sai  pháp, hiểu nghĩa không đúng chánh pháp. Do hiểu nghĩa  không  đúng  chánh  pháp  nên  mới  sản xuất ra kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ.



Tóm lại, một người muốn tu hành cầu giải thoát  thì nên  tìm một  vị  Thầy  tu  chứng  đạt chân lí và  giới luật  phải tinh nghiêm. Vị  Thầy ấy sẽ là chỗ nương tựa vững chắc trên bước đường  tu  tập  của  các  bạn  để   đi  đến  nơi  đến chốn.
Các  bạn  đừng nghe những  gì các  nhà  học giả thuyết giảng, họ dạy không có thực hành được đâu.  Chính   bản  thân  họ  giới  luật  chưa nghiêm chỉnh. Giới luật chưa nghiêm chỉnh, tu hành  chưa chứng  đạo, họ  nói  bằng  miệng lưỡi, chứ sự sống của họ chẳng có giải thoát gì, họ sống chùa to Phật lớn, là một điều sai; ăn uống, ngủ  nghỉ  phi  thời,  đau  bệnh  đi  bác  sĩ,  nằm bệnh viện, chích thuốc, uống thuốc, không ngày nào không dùng thuốc trị bệnh. Sự sống của họ như vậy chẳng khác gì người phàm phu, xin các bạn đừng nghe theo những cấp bằng của họ mà phí  hết  một  cuộc  đời,   thật  uổng  thay!  Thật uổng thay!!!
Khi chọn được một vị thầy tu chứng đạt chân  lí,  thì hãy  hết  sức  đặt  trọn  lòng  tin nơi họ, thì các bạn sẽ được chỉ dạy tận tình, nhờ đó các bạn mới giác ngộ được chân lí, nhờ giác ngộ được chân lí, lòng tin các bạn tăng trưởng, nhờ



lòng  tin tăng  trưởng  các  bạn  mới  đầy  đủ  sức tinh tấn tu tập.
Nếu  các  bạn  muốn  tu  tập  để  được chứng ngộ,  chứng  đạt  chân  lí trong  Phạm  hạnh  của giới  luật  Phật.  Thì  các  bạn  hãy  xin  vị  Thầy chứng  đạo  cho ở   gần  thân  cận  bốn  tháng  biệt trú  để   giữ  gìn  giới  hạnh.  Nếu  các  bạn  sống trong bốn tháng giữ gìn giới hạnh tinh nghiêm thì các  bạn  mới  xin  xuất  gia,  từ  bỏ  gia  đình, sống  không  gia đình,  quyết  tâm đi tới như con đại  tượng  đi tới  không  bao giờ  ngó  lui.  Có  như vậy,  các  bạn  mới  thấy  sự  lợi ích  lớn  cho đời sống ly gia cắt ái.
‚Này Magandiya, ai trước kia là ngoại đạo  nay  muốn  xuất  gia theo  Phật,  muốn thọ đại  giới  trong   pháp  và  luật  này  thì phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi  sống bốn tháng biệt trú, các Tỳ kheo nếu đồng ý sẽ  cho xuất  gia,  cho thọ đại  giới  để  thành Tỳ  kheo.  Nhưng  Ta   nhận  thấy các  tánh con người sai biệt nhau‛.
Đoạn kinh trên đây xác định rõ ràng, đạo Phật  không khuyến  dụ, không bắt  buộc,  không lôi cuốn ai theo đạo mình. Người tu theo Phật giáo là phải tự nguyện, tự giác, thích sống đời sống Phạm hạnh thì mới xuất gia tu hành theo




Phật, còn không sống đúng  thì thôi... Cho nên, kẻ  nào  lợi dụng  chiếc  áo  tu  sĩ  Phật  giáo  sống trong chùa to Phật lớn, phạm  giới, phá giới, bẻ vụn giới. Đó không phải là tu sĩ Phật giáo, họ không phải là Thầy của các bạn, họ là những người đang phá hoại Phật giáo. Các bạn hãy đề cao cảnh  giác  những  hạng  thầy  này.  Ngày  xưa đức Phật ví những vị thầy này là những loại trùng  trong  lông  sư tử!  Vậy  các  bạn nên  lưu ý và  cẩn  thận  đừng  nghe  theo  họ  mà  phí  uổng một đời người.





XÁ LỢI


LỜI PHẬT DẠY

‚Dân   chúng            Mạt    La        bảo     nhau:
‚Ngọn lửa  cháy mạnh quá,  khó dặp  tắt e cháy tiêu hết xá lợi! Chúng ta hãy lấy nước ở  đâu để tưới?‛.
(Kinh Trường A Hàm tập I trang 228, kinh Du Hành)


CHÚ GIẢI:

Đoạn kinh này đã xác định xá lợi của Phật  chỉ  là  những  mảnh  xương vụn, cháy  chưa hết,  chứ  không  phải  do tu  tập  thiền  định mới có xá lợi.
Kính  thưa các bạn! Trong cuộc đời ác trược này, người  tu sĩ  khi chết  mà  còn lừa đảo  thiên hạ  thì không  bằng  người  thế  tục  sống  lương thiện không lường gạt lừa đảo ai hết. Lợi dụng sự không biết của tín đồ, bịa đặt ra: do tu thiền tinh tủy kết tinh lại thành xá lợi lửa đốt không cháy. Người Phật tử nghe đâu tin đó  chứ không



xem xét kỹ nên sự tin như vậy là tin mù quáng. Từ lòng  tin này  Phật  tử  người  ít kẻ  nhiều  góp nhau xây tháp to lớn  đồ sộ để thờ  xá lợi.
Chỉ có xá lợi mà đã lường gạt biết bao nhiêu người trên thế gian này. Họ bảo rằng: Do tu  thiền  định mới  có  xá  lợi.  Trong  khi mọi người  chưa có  ai  biết  thiền  định và  nhập  như thế nào? Vậy mà dám bảo do tu thiền định mới có xá lợi.
Kính  thưa  các  bạn!  Các  bạn cứ  hỏi  các  vị Sư, Thầy:  “Thiền  định  như thế  nào?  Tu   thiền định là tu như thế nào?”.
Họ sẽ  trả  lời  các  bạn:  “Tu  thiền  định  là phải điều   thân,   điều   tâm,   điều   tức,   Sổ   tức quán, Lục diệu pháp môn, chăn trâu, giữ ông chủ, biết vọng liền buông, phồng xẹp v.v.. Đó  là tu thiền”.
Người mà đã chứng đạt chân lí, có đủ Tứ Thần  Túc,  họ  đã   nhập  định và  biết  rõ  thiền định như  thế  nào?  Vì  thế,  khi nghe  quý  vị trình bày  những  pháp  môn  tu  thiền  định như vậy, thì họ biết ngay là quý vị chưa bao giờ biết thiền định, chưa bao giờ nhập định. Những pháp  tu  tập  trên  đây  làm  sao nhập  định được. Định mà quý vị tu tập là những pháp môn ức chế tâm, định này mà nhập là các bạn đã bị rơi



vào  định tưởng,  chứ  không  phải  nhập  thiền định như vậy. Vì lối  tu tập  của quý  vị  là  lối tu tập ức chế ý thức cho hết niệm khởi, chứ không phải  thiền  định gì  cả,  đó   là  một  loại  thiền tưởng.
Xin  các bạn hãy đọc lại đoạn kinh Nguyên Thủy này thì sẽ rõ: ‚ Thưa Ni Sư thế  nào  là định? Thế nào là định tướng? Thế nào là định tư cụ? Thế nào là định tu tập?
‚ –  Này  Hiền  giả  Visaka, nhất  tâm  là định, bốn niệm xứ là định tướng, bốn tinh cần  là  định tư  cụ, sự  luyện  tập,  sự  tu  tập, sự tái tu tập của những pháp ấy là định tu tập ở  đây vậy‛.
Muốn  thấu  rõ  thiền  định thì phải  hiểu  rõ những cụm từ này:
1. định

2. định tướng

3. định tư cụ

4. định tu tập

Như trong đoạn kinh Nguyên Thủy này Ni Sư Dhammadinna đã  trả  lời  ngắn  gọn,  nhưng rất  đầy  đủ  cho những  ai  muốn  tìm hiểu  thiền



định của  Phật  giáo.  Vậy  nghĩa  lý  của  những cụm từ trên đây là gì?
1- Định là  nhất  tâm.  Vậy nhất  tâm là  gì? Từ   xưa  đến  nay  nhiều  người  chưa biết  thiền định nên  họ  đều  nghĩ  nhất  tâm  là  tâm  không có vọng tưởng hay nói cách khác là tâm không có niệm khởi, ‚Chẳng niệm thiện niệm ác‛ hoặc ‚Thất  nhật  nhất  tâm  bất  loạn  chuyên trì danh hiệu  A  Di   Đà  Phật‛.   Định nghĩa nhất  tâm  như  vậy  là  các  bạn  đều nhai  lại  bã mía của Đại Thừa và các giáo phái Bà La Môn.
Chữ nhất tâm của Ni Sư Dhammadinna quá  ngắn  gọn làm  cho người  ta  không  hiểu  rõ. Định là nhất tâm. Thì họ lại càng điên đầu suy diễn theo định kiến của mỗi kiến giải, càng suy diễn theo tưởng giải khiến cho người ta lại không hiểu định là gì nữa.
Thậm chí các nhà khoa học đem máy móc ra đo để  tìm hiểu những người nhập định, thấy bộ óc  có sự rung động thay đổi hoặc ngưng một vài bộ phận nào trên não là vội kết luận cho những người này nhập định.
Kính   thưa   các   bạn!   Các   bạn   nên   biết: Định mà  các  Sư Thầy  đã  nhập  đó  là  một  loại thiền định tưởng như đã nói ở  trên, do ức chế ý



thức  để   tưởng  thức  hoạt  động.  Cho  nên,  máy móc  các  nhà  khoa học  đo đạc  cho biết trên  bộ óc    có  phần  bị  ức  chế,  có  phần  hưng  phấn. Nhưng  những  loại  định này  là  thiền  định của ngoại  đạo,  chứ  không  phải  là  thiền  định của Phật  giáo.  Muốn  định  nghĩa  chữ  ‚định‛   theo nghĩa  của  ngoại  đạo  chứ  nghĩa  của  Phật  giáo thì định là chỗ tâm bất động trước các pháp ác và  các  cảm  thọ.  Định của  Phật  còn  có  tên  là bất động tâm, còn có tên là vô tướng tâm tức không có ba tướng làm tâm động, đó là dục lậu, hữu lậu và vô minh  lậu. Cho nên, chữ nhất tâm của  Ni Sư Dhammadinna có  nghĩa  là  bất  động tâm, chứ không phải chỗ tâm không niệm khởi, chỗ tâm không vọng tưởng.
Các  bạn có  bao giờ  nghe Phật  dạy:  ‚giới sinh định‛ chưa?  Giới là  pháp  môn  ly  dục  ly ác  pháp,  vì  thế  khi tâm  ly  dục  ly  ác  pháp  thì tâm nhập Bất Động Tâm Định. Bất Động Tâm Định không  phải  chỉ  biết  hít vô  thở  ra không có vọng tưởng. Các bạn hiểu như vậy là các bạn hiểu sai lạc.
Chỗ  ly  dục  ly  ác  pháp  là  chỗ  tâm  bất động, chứ không phải chỗ hơi thở ra vào.
Khi tâm bất động, tâm định trên thân hành  tức  là  thân  động  dụng chỗ  nào  là  tâm



biết ngay chỗ ấy như hơi  thở ra vô,  chứ  không phải như người tu theo pháp Hơi  Thở dùng hơi thở để tập trung tâm, chế ngự tâm, ức chế tâm, nhiếp phục tâm, làm cho tâm không khởi niệm. Đó là một sự hiểu sai lầm. Do sự hiểu sai lầm thành  ra tu  sai  lầm.  Cho nên,  định là  do sống không  làm  khổ  mình,  khổ  người  có  nghĩa  là sống mà không tham sân si, mạn, nghi là định. Người sống giới luật nghiêm chỉnh không hề vi phạm  những  lỗi  nhỏ  nhặt  nào,  thì người  ấy nhập định. Do đó  mà Ni Sư Dhammadinna xác định, định tướng là Tứ Niệm Xứ.
Kính   thưa  các  bạn!  Tứ  Niệm  Xứ  là  một trạng  thái  tâm  thanh  thản,  an lạc  và  vô  sự  đó là tướng của định bất động tâm như Ni Sư nói:
‚Bốn Niệm Xứ là định  tướng‛. Như vậy kinh sách  Nguyên  Thủy   đã   xác  định  rõ   ràng  về thiền  định. Vậy  ai  nói  sai  hoặc  kinh sách  nào nói không đúng định tướng của Phật là kinh sách  và  người  nói  ấy  đã  nói  về  thiền  định của ngoại  đạo,  chứ  không  phải  nói  về  thiền  của Phật giáo.
Ông   Visakha   hỏi:   ‚Tu  thiền   định    là
pháp môn nào?‛.

Ni  sư  Dhammadinna  đáp:  ‚Bốn   chánh
cần là định  tư cụ‛.



Tứ  chánh  cần  là  định tư  cụ  tức  là  phương pháp  dùng  để tu  tập  thiền  định. Như  vậy  rõ ràng tu tập thiền định là ngăn ác diệt ác pháp, sinh thiện tăng trưởng thiện pháp chứ không phải tu thiền định là ngồi kiết già, lưng thẳng, hít vô thở ra, tập trung tâm ở  tại mũi, ở  trán, ở bụng  phình  xẹp, hay ở   đan điền  v.v.. Người  tu tập  phải  hết  sức  cố  gắng  tập  trung  tâm  như vậy,   làm   cho  vọng   tưởng   không   sanh  khởi. Vọng tưởng không sanh khởi, họ cho đó là tu thiền, nhập định. Tu thiền, nhập định như vậy là  sai  không  đúng  thiền  của  Phật  giáo  như Ni sư  Dhammadinna  dạy:  ‚Bốn   chánh cần  là định  tư cụ‛.
Ở   đây  chúng  tôi  xin  nói  với  các  bạn: Nếu cứ  tập  trung  hít thở  thì ‚Đó  là  loại  thiền định  tưởng   của   ngoại   đạo,   tu   như   vậy chẳng có  ích lợi  gì.  Tâm tham,  sân, si  của các bạn vẫn còn nguyên, cho nên các bạn không làm chủ  bốn sự  đau  khổ: sanh,  già, bệnh,  chết  và  không chấm dứt  tái  sinh luân hồi‛.
Kính  thưa các bạn! các bạn có biết phương pháp tu tập Tứ Chánh Cần chưa? Đó là phương pháp  ngăn  ác  diệt ác  pháp,  sanh  thiên  tăng trưởng  thiện  pháp   mà   các  bạn  phải  tu  tập



trong  bốn  oai  nghi,  đi,  đứng,  nằm,  ngồi,  để  xả tâm  ly  dục ly  ác  pháp  và  từ  bỏ  từ  niệm  tham, sân, si, mạn, nghi chứ không phải ngồi kiết già cho hết  niệm  khởi.  Cho nên,  khi nào  tâm  các bạn  hết  tham,  sân,  si,  là  các  bạn  nhập  định. Các bạn có biết chưa?
Như  vậy  các  bạn  đã  hiểu  định là  tâm  bất động  trước  các  ác  pháp  và  các  cảm  thọ.  Cho nên,  Ni Sư Dhammadinna dạy:  ‚Định  tướng là  Tứ  Niệm  Xứ‛,  tức  là  tâm  thanh  thản,  an lạc và vô sự. Còn pháp tu tập thiền định thì hằng ngày thì Ni Sư Dhammadinna dạy: ‚Sự luyện  tập,  sự  tu  tập,  sự  tái  tu  tập  của những  pháp  ấy  là  định  tu tập  ở   đây  vậy‛. Các bạn có nghe lời dạy này không? Hằng ngày luyện  tập,  tu  tập,  tái  tu  tập  ngăn  ác  diệt  ác pháp, sinh  thiện tăng trưởng thiện pháp là các bạn đã tu tập thiền định của Phật giáo, chứ không phải ngồi kiết già lưng thẳng, hít thở hoặc giữ tâm không vọng tưởng v.v..
Xét qua trong kinh sách Nguyên Thủy, các bạn mới thấy kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông  Độ  dạy  tu  thiền  không  giống  như  Phật dạy. Có đúng như vậy không các bạn?
Vậy  mà  các  Tổ  Sư  Đại  Thừa  bảo  rằng:
kinh sách Đại Thừa do Phật thuyết, thật là oan



cho đức Phật. Đức Phật không dạy mà các Tổ gán  cho Phật  dạy  những  pháp  thiền  định  tu tập điên khùng khiến cho những người có nhiệt tâm tu hành  thành  bệnh thần kinh; khiến cho những  người  có  lòng  tin Phật  pháp  trở  thành những  người  mê  tín dị  đoan; khiến  cho những người  có  lòng  tin Phật  pháp  trở  thành  những người tin mù quáng. Thật đáng thương! Họ còn cho  rằng:  ‚Người  tu thiền  khi  chết  để lại  xá  lợi rất nhiều. Đó là mánh khoé lừa đảo người tu hành, khiến cho người ta nghĩ sai về Phật giáo.
Với thân tứ đại duyên hợp bất tịnh này là vô thường, có gì quan trọng, khi chết  sẽ thành cát bụi, còn có gì quý báu nữa đâu, thế mà lừa đảo  để   làm  tiền  thiên  hạ  thật  là  một  hành động đáng chê trách.
Tóm lại, khi tin theo một tôn giáo nào thì các  bạn phải  xem xét  cho thật  kỹ,  tôn  giáo  ấy có phải là một chân lí không?
Kính  thưa các bạn! Chân lí là một sự thật mà  mọi người  ai  cũng  phải  nhận  ra được. Nếu một  tôn  giáo  không  phải  là  sự  thật  mà  là  một ảo tưởng thì xin  các bạn hãy tránh xa, nếu các bạn tin thì đó là các bạn tin mù quáng, các bạn sẽ  trở  thành  những  người  mê  tín, lạc  hậu  v.v.. Vì đó  là  một  tôn giáo  lừa đảo,  chẳng có lợi ích



gì cho các  bạn  về  trí tuệ  nhân  quả,  hay  về  sự giải thoát bốn nỗi khổ: sanh, già, bệnh chết.
Trên đời này các tôn giáo thường hay lừa đảo  con người  bằng  Thánh  khải,  cơ bút  giáng v.v.. hoặc tạo ra những thần thông tưởng, nói chuyện  quá  khứ  vị  lai,  trị  bệnh  bùa  chú,  từ trường  tưởng  v.v..  Các  bạn  đừng vội  tin vì  tất cả những hiện tượng đĩ, nó không phải là chân lí, nó lưu xuất từ tưởng uẩn của các bạn.




DANH VÀ LỢI


LỜI PHẬT DẠY

‚Này  Tỳ  kheo,  Trên  đường  tu  học
khi  có danh,  có lợi thì  nên ẩn bóng‛.


CHÚ GIẢI:
Lời  dạy  trên  đây  là  đức  Phật  khuyên răn  chúng ta tu học  khi có danh  có lợi thì nên ẩn  bóng,  có  nghĩa  là  khi có  Phật  tử  cung kính tôn  trọng  và  cúng  dường  thì tâm  dễ  sanh đắm nhiễm thì nên ẩn bóng, có nghĩa nên tránh xa
danh  lợi, vì  danh  lợi dễ   làm  cho chúng  ta  ô
nhiễm. Các bạn hãy lắng nghe đời sống viễn ly của  đức  Phật,  tránh  xa  danh  và  lợi: “Trong khi  Ngài sống viễn ly như vậy, các Bà La Môn, gia chủ,  cả  thị dân  và  quốc  dân  bao vây xung quanh. Được bao vây xung quanh như vậy. Ngài không khởi lên nhiễm tâm, không rơi  vào  dục vọng, không khởi  lên tham   ái,  không trở  lui lại  đời  sống  sung túc‛.  Đây, các bạn có nghe chăng? Có danh, có



lợi như đức Phật, thế mà Ngài không đắm nhiễm, không trở lui lại đời sống sung túc, luôn luôn giữ hạnh ba y một bát, ngày ăn một bữa, sống không nhà cửa, không chùa to Phật lớn. Còn các Thầy Đại Thừa và Thiền Tông thì sao? Trở lui lại đời sống sung túc, ăn uống, ngủ nghỉ phi thời. Có đúng như vậy không các bạn?
Theo gương hạnh của Phật khi tu hành được  đôi chút  chúng  ta  có  danh,  có  lợi thì nên tránh  xa danh  lợi  tìm cách  từ  chối  hoặc  bằng cách ẩn bóng hoặc không nêu lên tên tuổi của mình,  đừng để cho mọi người biết.
Trong  các trường lớp tu hành chúng tôi đã thấy rất rõ ràng, người ta tu hành thời nay thường để  tạo danh tạo lợi bằng cách làm quen với Phật tử, nhất là Phật tử giàu có, chứ không phải lo tu tập giải thoát.




NGƯỜI TU SĨ  CẦN PHÂI GHI NHỚ


LỜI PHẬT DẠY




bi.

1-  Thân thường thể  hiện hạnh  từ


2- Miệng thường nói lời nhân  từ.

3- Ý  thường tâm  niệm  thương  xót,

không  ôm lòng thù hận thêm bớt.

4- Chỉ nhận  sự cúng dường vừa đủ.

5-  Giữ   gìn   giới   của   Thánh hiền không  tổn khuyết.
6- Nhận đạo Thánh hiền quyết dứt hết gốc khổ.


CHÚ GIẢI:

Đức Phật dạy: ‚Thân thường thể hiện hạnh   từ   bi‛.  Lời dạy  này  đức   Phật  thường nhắc nhở chúng ta mỗi hành động nơi thân đều thể  hiện  lòng  yêu  thương  sự  sống  của  muôn loài.  Vì thế,  người  đệ  tử  của  Phật  dù  cư sĩ  hay tu sĩ đều phải sống giữ gìn từng mỗi hành động



của thân mình,  làm bất cứ một việc gì đều phải cẩn thận, ý tứ, tỉnh thức để  tránh những hành động vô tình  hay hữu ý làm tổn thương đau khổ tất  cả  những  loài  vật  đang sống  quanh  chúng ta.  Vạn  vật  và  chúng  ta  đang sống  trên  hành tinh này  đều  sinh  ra từ  một  môi  trường  sống, cùng lớn lên trong môi trường ấy, nên chúng ta phải  yêu  thương  nhau  như  anh  em trong  một nhà  cùng  cha  cùng  mẹ.  Muốn  được lòng  yêu thương  ấy  đối  với  tất  cả  mọi  người  mọi  loài trên  hành  tinh này  thì chúng  ta  thường  tác  ý nhắc tâm: “Thân thường thể hiện hạnh từ bi, thân  không  được  làm  điều  ác   luôn  luôn  phải thực  hiện  điều  thiện,  phải chánh  niệm  tỉnh giác trong từng hành động, tránh làm đau khổ mình, đau khổ người và đau khổ các loài vật khác”. Khi nhắc tâm như vậy chúng ta thấm nhuần hạnh từ bi và tâm rất tỉnh thức. Nhờ đó cuộc   sống   của  chúng  ta  lúc  nào  cũng  thanh thản, an lạc và vô sự.
Nếu chúng ta quyết tâm thân thường thể hiện  hạnh  từ  bi  thì phải  suy tư  cho cặn  kẽ  về sự sống  của  muôn  loài  thì chúng  ta  hiểu  rằng: “Tất  cả  những  loài vật đang  sống  trên  hành tinh  này đều là  anh em, chị em cùng cha, cùng mẹ chung trong một  nhà  nhân  quả’’  như đã  nói

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT DẠY – TẬP IV


ở    trên,  chứ  đâu  phải  vạn  vật  trên  hành  tinh này là xa lạ. Nhưng khi sinh  ra, tùy theo duyên hợp  mà  có  sự  sai  khác  hình  hài,  tính tình. Do đó, chúng ta lầm chấp, phân chia ra nhiều loài khác  nhau,  rồi  lại  ăn  thịt  lẫn  nhau,  “con  vật lớn giết con vật nhỏ, người mạnh ăn hiếp người yếu”.  Vì  thế,  đức  Phật  thường  răn  nhắc  chúng ta:  ‚Thân   thường  thể   hiện  hạnh   từ   bi‛. Thân thường thể hiện hạnh từ bi, tức là thân thường hành động không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sinh.  Nhất là không bao giờ ăn thịt lẫn nhau thì mới gọi là thân thường thể hiện hạnh từ bi.
Theo đúng như lời Phật đã dạy: ‚Thân thường thể hiện hạnh  từ bi‛ tức là mỗi hành động  phải  thực  hiện  lòng  yêu  thương  sự  sống của  muôn  loài  trên  hành  tinh này  thì cuộc  đời này  sẽ  hạnh  phúc  biết  bao! Thế  gian  này  là thiên  đàng,  cực  lạc.  Có  đúng  như  vậy  không quý vị?
Đức Phật dạy: ‚Miệng thường nói lời nhân từ‛. Vậy nói lời nhân từ như thế nào?
Muốn hiểu rõ câu này thì nên hiểu hai chữ
NHÂN TỪ. Vậy nhân từ là gì?



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!