Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

những lời gốc phật dạy - tập 2 -8



nghiệm trí vô sư của đệ tử, nhưng kỳ thực đó là một lối hướng dẫn đệ tử triển khai tưởng tuệ bằng một công thức có bài bản của hệ phái này. Cho nên, các hệ phái này, Đại Thừa và Thiền Tông chưa có đem lại lợi ích thiết thực cho cuộc sống  con người,  mà  chỉ  đem lại  một  cuộc  sống vào trong  tinh thần ảo tưởng (Phật Tánh).
5- Trí  tuệ hữu học là trí tuệ do học tập và tu  hành.  Trí  tuệ  hữu  học  là  ý  thức  được  huân tu, huân học có thầy dạy, có kinh sách, có pháp môn tu hành, có bạn  đồng tu, có thiện tri thức hướng dẫn.
Trí  tuệ hữu học được hướng dẫn đúng theo giáo  pháp  Nguyên  Thủy  của  Phật  giáo  thì trí tuệ ấy trở thành một sự hiểu biết sống động, có đạo  đức nhân bản - nhân quả, không làm khổ mình,  khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Trí tuệ hữu học ấy còn gọi là tri kiến giải thoát của Phật giáo. Trí  tuệ ấy do tu tập Định Vô Lậu mà phát  triển.  Định Vô  Lậu  còn  được xem  là  tri kiến  giải  thoát.  Hay  nói  một  cách  khác  là  trí tuệ hữu học.
6- Trí tuệ thiện là sự hiểu biết về thiện pháp,  trí tuệ  không  làm  khổ  mình,  khổ  người, khổ  chúng  sanh; trí tuệ  thiện  là  tâm  ly dục ly ác pháp,  là  tâm bất  động trước  các  ác  pháp  và



các  cảm  thọ,  là  tâm  thanh  thản,  an lạc  và  vô sự;  trí tuệ  thiện  là  chánh  tư  duy, là  Định Vô Lậu;  trí tuệ  thiện  là  giới  luật,  là  Phạm  hạnh của người tu sĩ Phật giáo.
7- Trí  tuệ ác là sự hiểu biết về ác pháp; trí tuệ ác làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh;  trí tuệ  ác  là  tâm  tham,  sân,  si,  mạn, nghi, v.v.. Trí tuệ ác là tâm dao động trước các pháp ác và các cảm thọ; trí tuệ ác là tâm không ly  dục  ly  ác  pháp;  trí tuệ  ác  là  trí tuệ  của những người phàm phu tục tử, hèn nhát, tham sống, sợ chết, tham danh, đắm  lợi, vào luồn ra cúi, nịnh bợ, a dua, v.v..
8- Đức  tuệ  là  trí tuệ  đạo  đức,  trí tuệ  biết thương  mình  thương  người;  đức  tuệ  là  tâm  từ của Tứ Vô Lượng Tâm.
9- Hạnh tuệ  là  trí tuệ  đức  hạnh,  trí tuệ biến ra hành động không làm khổ mình khổ người  và  khổ  tất  cả  chúng  sanh;  Hạnh tuệ  là tâm bi của Tứ Vô Lượng Tâm.
10- Trực tuệ là trí tuệ ngay thẳng, dám ăn dám nói những cái sai của người khác. Trong thời  phong  kiến, các  quan Gián  Nghi  Đại  Phu là những vị quan can ngăn nhà vua. Những người làm chức vụ này, phải thẳng thắn gan dạ dám  nói  những  điều  nhà  vua làm  sai.  Những



người dám ăn dám nói như vậy là những người có Trực tuệ.
Về  tôn  giáo,  ngày  xưa Đức  Thích  Ca Mâu Ni dám  nói  thẳng  cái  sai  trong  giáo  lý  của  Bà La Môn và dựng lại những cái đúng, cái thiện giúp  cho loài  người  thoát  ra khỏi  tinh thần  tư tưởng  mê  tín lạc  hậu.  Ngài  cũng  còn  có  công xây dựng nền đạo  đức nhân bản - nhân quả cho loài  người,  mặc  dù  chưa được  triển  khai  trọn vẹn và đầy đủ. Ngài để lại cho loài người bốn chân lý bất di bất dịch thực tế và cụ thể mà muôn  đời  sau không  ai  thay  đổi được,  dù  một chút  xíu như  hạt  bụi.  Ngài  dám  nói  thẳng  cái sai  trong  giáo  lý  của  Bà  La Môn  là  vì tâm  đại từ  bi  đối  với  chúng  sanh,  đối  với  loài  người. Cũng  vì  thế,  mà  trên  đường  hành  đạo  Ngài phải  chịu  nhiều  gian  nan,  vất  vả.  Người  ta mắng chửi, vu oan Ngài với phụ nữ, xô đá, cho voi  say giết  Ngài.  Ngày  nay,  giáo  lý  Ngài  còn lưu lại  cho hậu  thế  là  một  công  ơn rất  lớn của Ngài.
Hôm nay,  vì  lòng   thương  tưởng  tín  đồ Phật giáo, nên chúng tôi chẳng ngại hiểm nguy trước  một  thế  lực  vĩ  đại  so với  mình  như  hạt cát giữa sa mạc. Dám nói thẳng sự thật, những cái  sai  của  kinh  sách  phát  triển  Đại  Thừa,



Thiền  Đông  Độ  và  những  cái  sai  của  các  hệ phái khác nhau trong Phật giáo hiện thời, để giúp  cho tín đồ  Phật  giáo  sáng suốt  nhận  định đâu là Chánh pháp, đâu là Tà pháp, đâu là Chánh  tín, đâu  là  Mê  tín, đâu  là  Chánh  kiến, đâu là Tà kiến; đâu là Chánh tư duy, đâu là Tà tư duy. Và như vậy, để khai hoang trục lộ Bát Chánh Đạo, giúp cho mọi người tu theo Phật giáo không còn đi sai đường lạc lối nữa.
Đức Phật ngày xưa và ngày nay chúng tôi nói thẳng, chỉ thẳng, v.v... Đó là Trực tuệ.
11- Thắng  tuệ  là  trí tuệ  chiến  thắng  mọi ác  pháp.  Ví  dụ: Người  ta  hay  mạ  nhục,  chửi mắng mình,  mà mình  nghe, thấy, biết rõ ràng, nhưng tâm không hề có chút giận hờn. Nghe, thấy, biết mà  không  khởi tâm giậïn hờn,  phiền não, đó  là Thắng tuệ. Thắng tuệ tức là tri kiến giải thoát do sự tu tập Định Vô Lậu mà có.
12- Liễu tuệ là trí tuệ thấy, hiểu, biết mọi pháp  như thật. Liễu tuệ còn gọi là  trí tuệ Tam Minh.
13- Liệt tuệ là trí tuệ yếu đuối không hoạt động, không làm việc, không chịu tư duy, suy nghĩ,  trí tuệ  mệt  mỏi,  lười  biếng,  uể  oải,  v.v.. Liệt tuệ  là  một  trí tuệ  không  có  sức  đề  kháng, là  một  trí tuệ  nhu  nhược hèn  nhát,  yếu  mềm;



liệt tuệ  là  trí tuệ  tiêu  cực,  yếm  thế  đầu  hàng mọi ác pháp. Người có liệt tuệ không bao giờ tu theo  Phật  giáo  được. Vì  Phật  giáo  là  một  tôn giáo  tự  lực  nên  không  có  ai  giúp  đỡ  mình  mà phải chính mình  vươn lên.

  Lời dạy thứ  tám  của  đức  Phật:  “Tất cả pháp  lấy  giải  thoát  làm  lõi  cây”. Đúng vậy, mục  đích  tu  theo  Phật  giáo  là  thân  tâm  phải được giải thoát. Giải thoát có nghĩa là phải hết tâm  tham,  sân,  si,  mạn,  nghi,  v.v..  Giải  thoát là  tâm  bất  động  trước  các  ác  pháp  và  các  cảm
thọ.

Lời dạy  này,  các  bạn  nên  lưu  ý:  Bất  cứ pháp nào xâm nhập vào thân tâm của chúng ta, chúng ta đều lấy sự giải thoát để  giữ vững thân tâm hoàn toàn bất động. Không nên để  tâm bị chúng xâm phạm, vì chúng xâm phạm sẽ cướp mất  quyền  làm  chủ  sanh,  già,  bệnh,  chết  và luân hồi của chúng ta.
Cho nên, ở  đây đức Phật bảo: “lấy giải thoát làm lõi cây”. Lõi cây là những thớ cây kết tinh cứng  rắn  nhất  của  một  cái  cây  để  cây có một giá trị tốt nhất. Còn ở  đây, chúng ta lấy sự  giải  thoát  làm  năng  lực  kết  tinh cứng  rắn nhất của thân tâm, để các ác pháp không làm động thân tâm chúng ta được.




Xin các bạn nên ghi nhớ mãi mãi lời dạy này:  “Tất cả  pháp  lấy  giải  thoát  làm  lõi cây”.  Nhờ  đó,  mà  thân  tâm  các  bạn  sẽ  không bao giờ  dao động,  luôn  luôn  thân  tâm  các  bạn thanh thản, an lạc và vô sự.

  Lời dạy thứ chín của  đức  Phật: “Tất cả pháp lấy bất tử làm chỗ thể nhập”. Vậy, nghĩa của những từ bất tử và thể nhập như thế
nào?

Bất   tử   nghĩa   là   không   chết;   thể   nhập nghĩa là nhập vào trạng thái bất di bất dịch. Nghĩa  chung  của  nhóm  từ  này  là  tất  cả  các pháp  lấy  chỗ  không  chết  vào  nơi  bất  di  bất dịch hay nói  cách  khác  cho dễ  hiểu  hơn là  các pháp lấy chỗ bất tử làm chỗ vào vĩnh cửu.
Thưa các bạn! Chỗ bất tử là tâm bất động, cho nên  trong  Phật  giáo  có  những  danh  từ  để chỉ cho chúng ta thấu rõ nghĩa này: Bất tử tâm hay bất động tâm đều có một nghĩa như nhau. Những  trạng  thái  tâm  này  được gọi  tên  theo thiền  định là  Bất  Động  Tâm  Định hay Bất  Tử Tâm Định.
Nếu  hằng  ngày  chúng  ta  tu  tập  giữ  gìn được tâm bất tử này, đừng cho mất thì chúng ta sẽ ngay đó  tìm thấy một trạng thái tâm thanh



thản,  an lạc  và  vô  sự  rất  rõ  ràng.  Vì  thế  đức Phật dạy chúng ta nên sử dụng: “Tất cả  pháp lấy bất  tử  làm  chỗ  thể  nhập”.  Đúng vậy, các bạn nên lưu ý và tu tập theo lời dạy này thì kết quả  giải  thoát  ngay  liền không  phải  chờ  đợi nhiều  đời,  nhiều  kiếp như kinh sách  Đại  Thừa
dạy.

  Lời dạy thứ mười của đức Phật: “Tất cả pháp  lấy  Niết  Bàn  làm  cứu  cánh”.  Trước khi muốn hiểu nghĩa của lời dạy này, thì chúng ta  phải  hiểu  nghĩa  của  những  danh  từ.  Vậy Niết Bàn và Cứu Cánh nghĩa là gì?
Thưa  các  bạn!  Các  bạn  đừng  theo  nghĩa kinh sách  của  các  nhà  học  giả  Đại  Thừa  và Thiền  Tông mà  hiểu  nghĩa  Niết  Bàn  là  cảnh giới siêu hình  thì không đúng các bạn ạ!
Niết Bàn là trạng thái vô lậu; Niết Bàn là tâm  bất  động  trước  các  pháp  và  các  cảm  thọ; Niết Bàn là tâm thanh thản, an lạc và vô sự; Niết Bàn là trạng thái tâm không còn một tí gì tham, sân, si, mạn, nghi.
Còn nghĩa Cứu cánh là nơi tột cùng của sự giải thoát, không còn có một nơi nào hơn được.



Nghĩa chung của câu dạy này là “Tất cả pháp  lấy tâm bất động làm nơi tột cùng của sự giải thoát”.
Thưa các bạn! Chúng ta tu theo Phật giáo, mục  đích  chúng  ta  phải  đạt  là  tâm  bất  động trước các pháp và các cảm thọ. Chúng ta không cầu làm Phật, không  cầu kiến tánh, không cầu Cực Lạc, Niết Bàn, không cầu thần thông phép thuật,  không  cầu  ngồi  thiền  nhập  định  bảy, tám ngày hoặc một tháng, hai tháng, ba tháng, một năm, hai năm, ba năm hoặc để lại nhục thân, v.v..
Vì  thế,  các  bạn nên  nhớ  lấy  lời dạy  này: “Tất cả  pháp  lấy  Niết  Bàn làm cứu  cánh”. Đó là sự rốt ráo tận cùng của Đạo Phật, nhưng phải  thông  hiểu  nghĩa  Niết  Bàn  và  Cứu  Cánh như thế  nào để  biết mà  giữ  gìn tu tập  và  sống cho đúng  nghĩa  của  nó,  thì ước  vọng  của  các bạn sẽ thành hiện thực trong đời nay. Thân ái chào các bạn.



Õ


MĨN ĂN


LỜI PHẬT DẠY

“1/  Này  các  Tỳ  Kheo! Cái  gì là  thức ăn cho minh giải thoát? Bảy Giác Chi, cần phải trả lời như  vậy.
2/ Này  các  Tỳ  Kheo!  Cái  gì là  thức ăn cho Bảy Giác Chi? Bốn Niệm Xứ, cần phải trả lời như vậy.
3/ Này  các  Tỳ  Kheo!  Cái  gì là  thức ăn  cho  Bốn  Niệm  Xứ?  Ba  Thiện Hành, cần phải trả lời như  vậy.
4/ Này  các  Tỳ  Kheo!  Cái  gì là  thức ăn  cho  Ba  Thiện Hành?  Các  căn  được chế ngự, cần phải trả lời như  vậy.
5/ Này  các  Tỳ  Kheo!  Cái  gì là  thức ăn cho các căn được chế ngự? Chánh Niệm  Tỉnh  Giác,  cần  phải  trả lời  như
vậy.

6/ Này  các  Tỳ  Kheo!  Cái  gì là  thức ăn  cho Chánh Niệm  Tỉnh  Giác?  Như  Lý Tác Ý, cần phải trả lời như  vậy.



7/ Này  các  Tỳ  Kheo!  Cái  gì là  thức ăn  cho  Như   Lý  Tác  Ý?  Lòng  tin,  cần phải trả lời như vậy.
8/ Này  các  Tỳ  Kheo!  Cái  gì là  thức ăn  cho  lòng  tin?  Nghe  diệu  pháp,  cần phải trả lời như vậy.
9/ Này  các  Tỳ  Kheo!  Cái  gì là  thức ăn  cho  nghe  diệu  pháp?  Thân cận  với bậc  chân nhân,  cần  phải  trả  lời  như vậy’’.


CHÚ GIẢI:
Mục  đích  cuộc  đời  tu  hành  của  chúng ta  là  phải  đạt  cho được  Tam  Minh. Chính  trí tuệ Tam Minh mới giúp  chúng ta diệt sạch lậu hoặc.  Nhờ  đó,  chúng  ta  mới  chứng  quả  A  La Hán, chấm dứt tái sanh luân hồi.
Vậy,  pháp  nào  để   chúng  ta  tu  tập  thực hiện được trí tuệ Tam Minh? Bảy năng lực Giác Chi  các bạn ạ!  Tu tập  Tam Minh mà  không có Bảy  Giác  Chi  thì không  làm  sao đạt  được  trí tuệ  Tam Minh. Cho nên,  trong  Kinh Tăng  Chi đức Phật đã  xác định: “Này các Tỳ Kheo! Cái



gì là  thức ăn  cho  Minh giải  thoát  (Tam Minh)? Bảy Giác Chi,  cần phải trả lời như vậy”. Như vậy, rõ ràng Bảy Giác Chi là pháp môn  tu  tập  để   đạt  được trí tuệ  Tam  Minh (Minh giải  thoát).  Từ  xưa đến  nay,  kinh sách Đại  Thừa  và  Thiền  Đông  Độ   thường  nói  về Tam Minh nhưng  chẳng biết và chẳng có pháp môn tu tập để  đạt Tam Minh. Chỉ có kinh sách Nguyên Thủy đã xác định rõ ràng về pháp môn tu tập Tam Minh. Nhưng  ở đây, đức Phật dùng lời   nói  đơn  giản,  ngắn  gọn,  đầy  đủ   ý  nghĩa hành  trì tuyệt  vời  “Thức ăn  cho Minh giải thoát (Tam Minh) là Bảy Giác Chi”. Bảy Giác Chi là thức ăn của Tam Minh, nghĩa là muốn  tu  tập  Tam Minh thì hằng  ngày  phải  tu tập Bảy Giác Chi như chúng ta ăn cơm hằng ngày vậy. Lời dạy này các bạn có thể nào hiểu không? Nó cụ thể, thực tế, đơn giản đầy đủ ý nghĩa. Phải không các bạn?
Từ  đây, muốn tu tập có trí tuệ Tam Minh, chứùng  quả  A La Hán,  thì các  bạn  biết ngay là phải sử dụng bảy năng lực của Giác Chi thì mới tu tập được Tam Minh (Minh giải thoát).
Vậy, pháp môn nào tu tập để  có được Bảy năng lực Giác Chi?



Thưa  các  banï!  Khi chúng  tôi  nói  đến  bảy năng  lực  của  Giác  Chi  thì các  bạn  bảo  rằng: Phật  chỉ  dạy  có  bảy  pháp  Giác  Chi,  chứ  chưa bao giờ nghe nói đến bảy năng lực Giác Chi. Vậy, bảy năng lực Giác Chi này ở  đâu mà ra?
Xin thưa các bạn! Con đường tu theo Đạo Phật,  các  bạn  nên  hiểu,  nó  có  ba bậc  và  tám lớp tu tập, mỗi lớp tu tập đều có bài học và bài thực hành tu tập khác nhau từ thấp lên cao. Do pháp  môn  có  thứ  bậc  thấp  cao như  vậy,  nên đoạn kinh trên  đây  đã  xác  định cho chúng  ta thấy lấy kết qủa của pháp này tu tập cho pháp cao hơn,  lấy  kết  quả  của  pháp  cao hơn  tu  tập cho pháp  cao hơn nữa.  Tu tập  phải  có  kết  quả ngay liền, vì pháp này là món ăn cho pháp kia “Cái   gì  là   thức  ăn   cho  minh  giải   thoát (Tam Minh)?  Bảy  Giác  Chi,  cần  phải  trả lời như vậy”. Nếu chưa có Bảy Giác Chi thì không  thể  nào  nhập  Tứ  Thánh  Định và  thực hiện Tam Minh (Minh giải thoát) được.
Đọc đoạn kinh này  chúng ta xét  qua kinh sách Đại Thừa và  Thiền Đông  Độ  thì chúng ta biết họ tu tập sẽ không bao giờ thực hiện Tam Minh được. Tại sao vậy?
Vì đường  lối tu tập của Đại Thừa và Thiền
Tông  rất  mơ hồ  và  trừu  tượng,  không  có  pháp



hành   thực   hiện   Tam  Minh.  Không   có   Tam Minh thì làm sao có tâm vô lậu được? Không có tâm vô lậu thì làm sao có giải thoát, chấm dứt luân hồi được?
Bởi vậy, Pháp hành thực hiện được Tam Minh là món ăn của Tam Minh. Món ăn, ở  đây chúng  ta  phải  hiểu  nghĩa  là  siêng  năng  tinh cần tu tập hằng ngày không biếng trễ với Bảy Giác Chi này.
Trên  đây,  Bảy  Giác  Chi  là  món  ăn  của Tam  Minh. Vậy,  món  ăn  của  Bảy  Giác  Chi  là gì?

Đức Phật đã dạy như vầy: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho Bảy Giác Chi? Bốn Niệm  Xứ,  cần  phải  trả  lời  như vậy”. Món ăn của Bảy Giác Chi là Tứ Niệm Xứ, đúng như vậy. Trong  Tứ  Niệm Xứ có ba giai đoạn tu
tập:

- Giai  đoạn một:  Tứ  Chánh  Cần  trên  Tứ
Niệm Xứ.

- Giai đoạn hai: Tứ Niệm Xứ trên Tứ Niệm

Xứ.



- Giai  đoạn ba: Thân  Hành  Niệm  trên  Tứ

Niệm Xứ.



Giai  đoạn tu  tập  cuối  cùng  của  Tứ  Niệm Xứ  là  pháp  Thân  Hành  Niệm,  chỉ  có   pháp Thân Hành Niệm thì Bảy Giác Chi mới xuất hiện.  Nói cho rõ  nghĩa hơn là  khi tu tập  Thân Hành Niệm thì có mười công đức  xuất hiện tức là mười thần lực, còn gọi là mười Như Lai lực. Nhờ  những  lực này  mà  nhập  các  định và  thực hiện  Tam  Minh. Cho nên  đoạn kinh trên  đức Phật  dạy: “Cái  gì là  thức ăn cho minh  giải thoát? Bảy Giác Chi, cần phải trả lời như vậy”.  Đó  là  lời dạy  về  pháp  môn  tu  tập  của Tam  Minh.  Còn  ở    đây,  đức   Phật  không  xác định Thân Hành Niệm là thức ăn của Bảy Giác Chi mà lại xác định Tứ Niệm Xứ. Tại sao vậy?
Thưa  các  bạn!  Bởi  vì  pháp  Thân  Hành Niệm là pháp môn tu tập ở  giai đoạn ba, tức là giai đoạn cuối cùng của Tứ Niệm Xứ. Không thể tu tắt bỏ giai đoạn I, II được.
Tứ  Niệm  Xứ  có  ba giai  đoạn tu  tập  như chúng tôi đã kể   ở trên; có tu tập đúng ba giai đoạn thì Bảy Giác Chi mới xuất hiện, có nghĩa là  tuần  tự  tu  tập  pháp  nào  trước  pháp  nào  sau cho đến pháp Thân Hành Niệm là pháp môn cuối cùng của Tứ Niệm Xứ. Cho nên đức Phật dạy: Tứ  Niệm Xứ là  thức ăn của Bảy Giác Chi.



Nếu  không  tu  tập  Tứ  Niệm  Xứ  thì không  bao giờ có Bảy Giác Chi.
Đến đây, các bạn cần lưu ý: Người tu theo Phật giáo mà không đạt Lậu Tận Minh thì không  thể  nào  chấm  dứt  sanh  tử,  luân  hồi. Ngoài Lậu Tận Minh ra thì không có pháp nào tu  tập  chấm  dứt  sanh  tử  luân  hồi  được,  bởi  vì con đường tu  tập  của  Phật  giáo  đã  xác  định rõ ràng  từng  pháp  môn,  từ  pháp  thấp  đến  pháp cao; pháp  thấp  là  món  ăn  cho  pháp  cao, có nghĩa là lấy kết quả của pháp thấp mà tu tập pháp cao hơn.
Thức ăn của Bảy Giác Chi là Tứ Niệm Xứ. Vậy, thức ăn của Tứ Niệm Xứ là gì?
Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật trả lời: “Này  các  Tỳ  Kheo!  Cái  gì là  thức  ăn  cho Bốn  Niệm  Xứ?  Ba  Thiện Hành,  cần  phải trả lời như vậy”.
Thức  ăn  của  Tứ  Niệm  Xứ  là  Ba  Thiện
Hành. Vậy Ba Thiện Hành là gì?

Ba Thiện  Hành  là  ba nơi  làm  điều  lành. Ba nơi làm điều lành đó là nơi nào?
1-  Thân Thiện Hành

2-  Khẩu Thiện Hành

3-  Ý Thiện Hành



Thân  Thiện  Hành  nghĩa  là  gì? Và  Thân
Thiện Hành tu tập như thế nào?

Thân Thiện Hành, có nghĩa là tất cả hành động nơi thân, không làm khổ mình  không làm khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh.
Thân  Thiện Hành,  hằng  ngày phải tu tập ngăn  ác  diệt ác  pháp,  sinh  thiện  tăng  trưởng thiện pháp. Tu như vậy là  tu pháp  môn  gì? Tu như vậy là tu tập pháp môn Tứ Chánh Cần.
Tứ  Chánh  Cần  phải  tu  tập  ra hành  động như thế nào? Muốn tu tập Tứ Chánh Cần ra hành động thì phải tu tập Định Niệm Hơi  Thở, Định Chánh  Niệm  Tỉnh  Giác,  Định Sáng  Suốt và Định Vô Lậu.
Tất cả các pháp trên đây là những pháp tu tập của “Thân Thiện Hành”.
Xin  các  bạn  lưu  ý:  Đây  là  thân  hành  tu tập  Tứ   Chánh  Cần,  nên  gọi  là  Thân  Thiện hành.
Khẩu   Thiện   Hành   là   gì?  Khẩu   Thiện
Hành thì phải tu tập pháp nào?

Khẩu Thiện Hành là tất cả những hành động  của  miệng  không  làm  khổ  mình,  không khổ người và khổ tất cả chúng sanh.



Muốn tu tập Khẩu Thiện Hành thì phải tu tập Tứ Chánh Cần. Hằng ngày, nên giữ gìn lời ăn   tiếng   nói.   Không   nói   thì  im   lặng   như Thánh,  nhưng  khi nói  ra thì phải  nói  ra lời thiện, không được nói dối, không được nói thêu dệt, không được nói  lời hung dữ,  nói lật  ngược, nói xấu người khác, v.v..
Người  ăn  uống  phi   thời  không  phải  là Khẩu Thiện Hành. Ăn uống đúng giờ giấc, ăn uống có tiết độ, ăn uống có lòng từ bi, không ăn uống  thực  phẩm  động  vật,  vì  thực  phẩm  động vật  là  có  sự  đau khổ  của  loài  động  vật.  Người ăn uống như vậy là người giữ gìn Khẩu Thiện Hành.
Xin  các  bạn  lưu  ý  về  Khẩu  Thiện  Hành của  mình  và  cố  gắng  khắc  phục  tâm  mình  để giữ  gìn  trọn  vẹn  như  lời dạy  của  đức   Phật: “Này  các  Tỳ  Kheo! Cái  gì là  thức  ăn  cho Bốn  Niệm  Xứ?  Ba  Thiện Hành,  cần  phải trả  lời   như  vậy”,   thì khẩu  hành  mới  được thanh tịnh.
Như lời Phật đã  dạy: “Này  các  Tỳ  Kheo! Cái gì là thức ăn cho Ba Thiện Hành? Các căn  được  chế  ngự,  cần  phải  trả lời  như vậy”.  Các  căn  được chế  ngự  là  gì?  Với  pháp môn nào để chế ngự được các căn?



Trong thân chúng ta có sáu căn:

1-  Nhãn căn

2-  Nhĩ căn

3-  Tỷ căn

4-  Thiệt căn

5-  Thân căn

6-  Ý căn

Chế   ngự   nghĩa   như  thế   nào?   Chế   ngự nghĩa  là  làm  cho nó  giảm  bớt,  không  còn  tăng trưởng, không còn phát triển, không còn dính mắc với sáu trần, làm cho nó không còn dính mắc sáu trần nữa, không làm theo ý muốn. Trước  khi làm  theo  ý  muốn  thì phải  quán  sát nên làm hay không nên làm, nên làm là làm không có dục xen vào, có dục xen vào nhất định không làm.
Ví  dụ  1:  Chưa  đến  giờ  ăn  mà  bụng  đói muốn ăn, thì nhất định không ăn, chờ đúng giờ mới ăn. Đó là chế ngự ăn uống.
Người thường chế ngự ăn uống như vậy tức là chế ngự tâm dục của mình.  Chế ngự tâm dục của  mình,  đó  là  làm  chủ  tâm  mình.  Thường  tu tập  làm  chủ  tâm  mình  như  vậy  là  thực  hiện Khẩu Thiện Hành.



Ý  Thiện  Hành  là  gì? Ý  Thiện  Hành  là hành động thiện của ý. Hành động thiện của ý là gì? Hành động thiện của ý là Chánh Tư Duy. Chánh  Tư Duy là  sự  suy tư  nghĩ  tưởng  không làm  khổ  mình,  khổ  người  và  khổ  tất  cả  muôn loài vật. Ý Hành Thiện có năm:
1-  Ý không khởi niệm tham

2-  Ý không khởi niệm sân

3-  Ý không khởi niệm si

4-  Ý không khởi niệm mạn

5-  Ý không khởi niệm nghi

Nếu ý khởi ra niệm mà có tham, sân, si, mạn, nghi thì không thể nào gọi là Ý Thiện Hành. Muốn cho ý thiện hành hiện tiền thì hằng ngày chúng ta phòng hộ sáu căn. Vậy phòng hộ sáu căn như thế nào?
Phòng hộ sáu căn là giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý. Nói như vậy các bạn rất khó hiểu, chúng tôi sẽ cho một ví dụ giúp các bạn hiểu một cách dễ dàng.
Ví  dụ  2: Trong  giờ  đang tu  tập  Tứ  Niệm Xứ  thấy  nhà  dơ,  khi xả  thiền  xong  lấy  chổi quét dọn cho sạch, thay vì giờ ấy là giờ xả nghỉ thư giãn thì chúng ta lại đi quét dọn, quét dọn là làm theo ý dục của mình;  làm theo ý dục của



mình   tức  là  không  phòng  hộ  ý  căn.  Không phòng  hộ  ý  căn tức là  không  chế  ngự  tâm dục. Không  chế  ngự  tâm  dục tức  là  không  ly dục ly ác pháp, mà mục đích tu hành của Phật là phải ly dục ly ác pháp để đạt cho được tâm bất động. Cho nên,  các  căn  được chế  ngự  là  món  ăn  của Ba Thiện Hành.
Vậy, muốn chế ngự được các căn phải chế ngự bằng cách nào? Muốn chế ngự được các căn thì các  bạn  nên  tu  tập  tỉnh  thức  trong  thân hành nội và thân hành ngoại như: Chánh niệm tỉnh giác trong khi đi kinh hành (Thân hành niệm  ngoại), Chánh  niệm  tỉnh  giác  trong  từng hơi  thở  (Định  Niệm  Hơi   Thở),  Chánh  niệm tỉnh  giác  trong  từng  tâm  niệm  (Định Vô  Lậu); Chánh niệm tỉnh giác trong thư giãn (Định Sáng Suốt); Chánh Niệm tỉnh giác trong Tứ Niệm Xứ.
Hằng ngày tu tập được tỉnh thức như vậy, nên  đức  Phật  gọi  Chánh  Niệm  Tỉnh  Giác  là thức ăn cho các căn được chế ngự.
Xin  các bạn  đọc lại lời Phật đã  dạy: “Này các Tỳ Kheo! Cái gì là thức ăn cho các căn được chế ngự? Chánh Niệm Tỉnh Giác, cần phải  trả lời  như vậy”.  Nếu các bạn không tu tập Chánh Niệm tỉnh Giác trên đây thì khó mà



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!