Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2013

những lời gốc phật dạy - tập 2 -5



diệt trừ, phá hôn trầm, thùy miên. Hôn trầm, thùy  miên  cũng  là  một  lậu  hoặc  như  các  lậu hoặc khác. Muốn diệt trừ nó có nhiều phương pháp, nhưng ở  đây đức Phật dạy bằng phương pháp  như lý  tác  ý:  “Hôn trầm,  thùy  miên là một trạng thái ngu si, ta phải từ bỏ xa lìa, đoạn diệt, làm cho  thật sạch”.
Khi bị hôn trầm thùy miên tấn công thì chúng  ta  vừa  đi  kinh hành,  vừa  tác  ý:  “Với tâm định tỉnh tôi biết tôi đi kinh hành, chân trái bước.  Với  tâm  định  tỉnh  tôi  biết tôi đi kinh hành, chân phải bước”.
Trên đây là  những  lậu hoặc  cần phải  trực tiếp  diệt trừ  như: Tâm  tôi  có  tham  thì tôi  biết tâm  có  tham.  Tâm  có  tham  thì cần  phải  diệt trừ  bằng  câu  pháp  hướng:  “Tham là  ác  pháp là  khổ đau hãy đi,  đi!” hoặc  “Tham không phải  là  ta.  Ta   không chấp nhận  ngươi, ngươi hãy đi, đi!”.
Tâm  tôi  có  sân  thì tôi  biết  tâm  có  sân. Tâm có sân thì cần phải diệt trừ bằng câu pháp hướng: “Sân  là  ác  pháp  là  khổ đau hãy đi, đi!”  hoặc “Sân  không phải  là  ta.  Ta  không chấp nhận ngươi, ngươi hãy đi, đi!”.
Chúng ta hãy lắng nghe đức Phật dạy:



“Và  này các  Tỳ  Kheo, thế  nào là  các
lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ?

Này  các  Tỳ  Kheo, ở   đây,  Tỳ  Kheo như lý  giác  sát  không có  chấp nhận  dục niệm khởi lên,  từ  bỏ,  trừ  diệt,  diệt  tận.  Không cho  tồn  tại  dục niệm  ấy;  không có  chấp sân niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận. Không cho tồn tại sân niệm ấy; không có  chấp các  ác  bất  thiện pháp  luôn  luôn khởi lên,  từ  bỏ,  trừ  diệt,  diệt  tận.  Không cho tồn tại các ác bất thiện pháp ấy.
Này các Tỳ  Kheo, nếu vị  ấy không trừ diệt như  vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não  ấy  có  thể  khởi  lên.  Nếu  vị  ấy  trừ diệt như  vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa.
Này  các  Tỳ  Kheo,  các  pháp  ấy  được gọi là  các  lậu  hoặc  phải  do trừ  diệt  được đoạn  trừ”.
Lời dạy  trên  đây  rất  rõ  ràng,  muốn  diệt trừ  các  lậu  hoặc  này  thì phải  có  đầy  đủ  nghị lực,  phải  có  sự  quyết  chí,  gan  dạ  ngăn  chặn không  để   tâm  làm  theo  dục.  Nguyện  chết  bỏ chứ không làm nô lệ, tay sai cho dục. Có quyết tâm cao như vậy thì mới thắng được dục.



  Phương cách thứ  bảy,  tu tập  tâm  vô  lậu bằng  pháp  Như  Lý  Tác  Ý.  Đức  Phật  đã  dạy: “Có những lậu hoặc phải do tu tập được đoạn  trừ”. Như  vậy,  pháp  thứ  bảy  là  phải dùng  tác  ý  “tu  tập”  để diệt   trừ  lậu  hoặc.  Vậy tu tập nghĩa là gì?
Tu tập là dùng ý thức tư duy, suy nghĩ cái đúng,  cái  sai,  cái  thiện,  cái  ác,  v.v..  Chọn  lựa từng câu tác ý cho hợp với đặc tướng của mình, hoặc chọn lựa những hành động nội ngoại của thân,  để  tạo  thành  niệm.  Nhờ  nương niệm  ấy tu tập tỉnh giác, nhờ tỉnh giác an trú thân tâm, nhờ  an trú  thân  tâm  mới  xả  ly tham,  sân,  si, mạn, nghi được.
Thưa  các  bạn!  Muốn  tu  tập  để  đoạn diệt lậu  hoặc thì các bạn  phải  biết các pháp  nào tu tập trước tiên. Vậy, pháp môn trước tiên để các bạn tu tập là pháp nào, các bạn có biết chăng? Có  lẽ   các  bạn  sẽ  trả  lời:   Tứ  Chánh  Cần,  Tứ Niệm Xứ, hay Định Niệm Hơi  Thở, v.v.. Không phải đâu các bạn ạ! Pháp các bạn đầu tiên mới


vào tu tập là pháp môn Bảy Giác Chi1. Vậy Bảy
Giác Chi là gì? Bảy Giác Chi gồm có là:

1-  Trạch Pháp Giác Chi

2-  Niệm Giác Chi

3-  Tinh  Tấn Giác Chi

4-  Khinh An Giác Chi

5-  Hỷ Giác Chi

6-  Định Giác Chi

7-  Xả Giác Chi

Muốn  tu  tập  đoạn diệt  lậu  hoặc  thì Trạch Pháp  Giác  Chi  là  pháp  môn  tu  tập  thứ  nhất. Tại sao nó là pháp môn tu tập thứ nhất? Muốn biết tại sao nó là pháp môn tu tập thứ nhất thì phải hiểu nghĩa.
Vậy Trạch Pháp Giác Chi là gì? Trạch Pháp  Giác  Chi  có  nghĩa  là  chọn lựa pháp  môn tu tập để được   giác ngộ giải thoát. Người tu tập mà không biết chọn pháp môn tu hành là người thiếu  cân  nhắc,  thiếu  tư  duy, thiếu  sáng  suốt,
thường  nhẹ  dạ, yếu  lòng,  dễ  bị  người  khác  lừa




1 - Chúng ta phải hiểu và phân biệt cho rõ ràng Bảy Giác Chi  có hai phần: 1- Bảy pháp Giác Chi; 2- Bảy năng lực Giác Chi.



đảo.  Những  người  như  vậy  là  những  người  mê tín, cuồng  tín trong  tôn  giáo.  Hầu  hết  một  số người   chỉ   tin  theo   pháp   môn   Đại   Thừa   và Thiền Tông nên  không  chịu  nghiên  cứu,  vì thế tu gần chết mà chẳng giải thoát được những gì, suốt đời chỉ tu tập, nhưng cuối cùng tay trắng cũng là tay trắng.
Bởi vậy, muốn tu tập thì phải chọn lựa pháp, chứ không lẽ  muốn tu mà đụng pháp nào cũng  tu  tập  pháp  nấy  sao? Tu  như  vậy  là  tu trong ngu si, dễ bị người khác lừa đảo pháp giả. Do không  trạch  pháp,  dễ  rơi vào  cạm bẫy  của tà  pháp  ngoại  đạo.  Vì  không  biết  trạch  pháp nên tín đồ  Phật giáo đã  rơi vào rọ lưới của Đại Thừa và Thiền Đông Độ. Biết bao nhiêu công sức  và  tiền  của  đồng  bào  Phật  tử  đổ  vào  nơi đây  như núi  như rừng,  nhưng  xét  cho cùng  thì chẳng  có  ích lợi gì, chỉ  là  một  tâm  lý  thư  giãn của những người cuồng tín.

Phật giáo Nguyên Thủy dạy chúng ta bắt đầu vào pháp tu tập là phải biết chọn lựa pháp. Chọn  lựa pháp  tức là  Trạch Pháp  Giác Chi.  Vì qua kinh nghiệm  tu  hành  của  đức  Phật  ngày xưa, khi đi tu  Ngài  chỉ  biết tin mù  quáng  theo lời dạy của các vị Bà La Môn, cho nên sáu năm khổ  hạnh  nơi  rừng  già,  thân  mình  tiều  tụy  đi



hết  muốn  nổi  như sắp  chết,  mà  chẳng  được lợi ích gì cho kiếp  đời khổ đau.
Sau khi tự tìm ra đường lối tu tập thì Ngài cảm  thấy  như  không  có  gì  khó  khăn  và  mệt nhọc, chỉ cần biết cách xả tâm đúng như bảy trường  hợp  trên  đây.  Và  trường  hợp  cuối  cùng để  xả tâm bằng những pháp môn tu tập, nhưng phải dùng pháp như lý tác ý đi song hành theo bảy trường hợp xả tâm.
Khi bắt đầu vào pháp tu tập thì phải sử dụng pháp  Bảy  Giác  Chi,  dù  là  sống  đời sống Phạm hạnh vẫn phải sử dụng Giác Chi cho đến pháp  tu  cuối  cùng  để   nhập  các  định và  thực hiện  Tam Minh cũng  phải  dùng Bảy  Giác  Chi, nhưng nó không phải là Bảy Pháp Giác Chi mà là  bảy  năng  lực  Giác  Chi.  Đây,  chúng  ta  hãy đọc đoạn kinh này thì thấy rõ ràng là đức Phật đã dạy:
1/  “Này  các  Tỳ  Kheo, ở   đây,  Tỳ  Kheo như   lý   giác   sát   tu  tập   Niệm   Giác   Chi, Niệm  Giác  Chi  này  y viễn  ly,  y ly  tham,  y đoạn diệt, y hướng đến từ bỏ”.
2/  “Này  các  Tỳ  Kheo, ở   đây,  Tỳ  Kheo
như  lý  giác  sát  tu  tập  Trạch  Pháp  Giác



Chi,  Trạch  Pháp  Giác  Chi  này y viễn  ly,  y ly tham,  y đoạn diệt, y hướng đến từ bỏ”.
3/  “Này  các  Tỳ  Kheo, nếu  vị  ấy  không tu  tập  như   lý  giác  sát  tu  tập  Tinh Tấn Giác  Chi,  Tinh Tấn  Giác  Chi  này không  y viễn ly, y ly tham,  y đoạn diệt, y hướng đến từ bỏ”.
4/ “Này  các  Tỳ  Kheo, nếu  vị  ấy  không tu  tập  như   lý  giác  sát  tu  tập  Khinh  an Giác  Chi,  Khinh an  Giác  Chi  này không  y viễn ly, y ly tham,  y đoạn diệt, y hướng đến từ bỏ”.
5/ “Này  các  Tỳ  Kheo, nếu  vị  ấy  không tu  tập  như  lý  giác  sát tu  tập  Hỷ  Giác Chi, Hỷ   Giác  Chi   này   không y  viễn   ly,   y  ly tham,  y đoạn diệt, y hướng đến từ bỏ”.
6/ “Này  các  Tỳ  Kheo, nếu  vị  ấy  không tu  tập  như  lý  giác  sát  tu  tập  Định  Giác Chi,  Định Giác  Chi này không  y viễn  ly,  y ly tham,  y đoạn diệt, y hướng đến từ bỏ”.
7/ “Này  các  Tỳ  Kheo, nếu  vị  ấy  không tu  tập  như  lý  giác  sát tu  tập  Xả  Giác  Chi, Xả   Giác   Chi   này   không y  viễn   ly,   y  ly tham, y đoạn  diệt, y hướng đến từ bỏ”.



“Này các Tỳ Kheo, nếu vị ấy không tu tập như  vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não  ấy  có  thể  khởi  lên.  Nếu  vị  ấy  tu  tập như  vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa”.
“Này  các  Tỳ  Kheo, các  pháp  ấy  được gọi là  các  lậu  hoặc  phải  do  tu  tập  được đoạn  trừ”.
Đọc   bài   kinh  trên,   chúng  ta  thấy   đức Phật  dạy  tu  tập  xả  tâm  rất  tỉ  mỉ.  Mỗi  tâm niệm trong ta khởi lên ở   nhiều góc độ  ác pháp khác  nhau.  Do đó,  đức  Phật  đã  chia  làm  bảy cách đoạn  diệt lậu  hoặc,  tùy  theo  mỗi lậu  hoặc dùng  pháp  tác  ý  mà  diệt chúng.  Có  pháp  môn tu tập trực tiếp diệt lậu hoặc như vậy, thế mà trên  đường  tu  tập  chúng  ta  còn  gặp  biết  bao thứ lậu hoặc rất cứng đầu và khó trị. Cho nên, nhìn  lại  pháp  tu  tập  của  các  Tổ  sư thấy  rõ  chỉ Đại  Thừa  và  Thiền  Tông là  những  loại  pháp môn tránh né, trốn chạy lậu hoặc. Tu như vậy, dù  có tu muôn kiếp cũng chẳng đi đến đâu, chỉ uổng phí một đời tu mà thôi. Các bạn cứ suy ngẫm lại xem có đúng không?
Bài  kinh trên  đây  là  một  bài  kinh rất tuyệt  vời  giúp  cho mỗi  hành  giả  đoạn trừ  lậu hoặc tận gốc.

Õ


TỰ XÉT MÌNH BIẾT MÌNH
CĨ CHỨNG  ĐƯỢC QUẢ A LA HÁN HAY KHƠNG?


LỜI PHẬT DẠY

“Này Bà La Môn, thật sự là vậy. Này Bà   La   Môn thật   khó   trú   xứ   xa  vắng trong  rừng núi hoang  vu! Thật khó khăn đời  sống  viễn  ly!  Thật khó  thưởng thức đời  sống  độc  cư!  Ta  nghĩ rằng rừng rú làm  rối  loạn  tâm  trí vị  Tỳ  Kheo  chưa
chứng thiền định”.


CHÚ GIẢI:

Đoạn kinh này chỉ cho chúng ta thấy rằng:  Đời  sống  nơi  hoang vắng,  đời sống  viễn ly  và  đời sống  độc cư, bản  chất  con người  khó mà  sống  được. Vì con người  sống  trong  dục  lạc và ác pháp như vậy, thì cảnh hoang vắng rừng rú sẽ làm rối loạn tâm trí của họ. Vậy đời sống



nơi  hoang vắng  như thế  nào?  Đời  sống  viễn  ly như thế nào? Đời sống độc cư như thế nào?
  Đời  sống  nơi  hoang  vắng  là  sống  nơi rừng  rú,  nơi  nghĩa  địa, nơi  cánh  đồng  mông quạnh, nơi hòn đảo giữa biển khơi,  v.v..
  Đời sống viễn ly là đời sống không nhà cửa không gia đình, đơn thân, đơn chiếc, sống độc thân một mình,  v.v..
  Đời sống độc cư là đời sống không giao thiệp với ai, không thích tập họp, không thích nói  chuyện,  không  thích  giao  du, không  thích qua lại,  không  thích  tranh luận,  không  thích bạn bè, v.v..
Đời  sống   như  vậy  không  thích  hợp  với người thế gian, người phàm phu, người còn ham vui, người còn ham thích dục lạc, v.v.. Cho nên, họ không thể sống như vậy được. Ngược lại, chỉ có  những  bậc  hướng  đến Thánh  quả  A La Hán thì mới sống được như vậy.
Tự xét mình  có thích sống trong ba trường hợp này thì người ấy sẽ tu tập chứng quả A La Hán  chỉ  trong  một  đời  này,  còn  ngược  lại,  thì rất khó chứng quả A La Hán. Chúng ta hãy đọc đoạn kinh kế tiếp dưới đây thì sẽ thấu hiểu rất rõ ràng:



“Này  Bà  La Môn, xưa kia khi Ta chưa chứng ngộ Chánh đẳng giác, khi  còn là Bồ Tát,   Ta  nghĩ   như  sau: “Thật   khó  kham nhẫn  những  trụ  xứ  xa  vắng,  trong   rừng núi  hoang   vu!  Thật  khó   khăn  đời   sống viễn ly! Thật khó thưởng thức đời sống độc cư!  Ta  nghĩ rằng: Rừng  núi  làm  rối  loạn tâm   trí  vị   Tỳ   Kheo   chưa   chứng thiền định!”.
“Này Bà La Môn, rồi ta suy nghĩ: “Những  Sa môn hay Bà  La Môn nào, thân nghiệp không thanh tịnh,  sống  trong  các trụ  xứ  xa  vắng,  trong  rừng núi  hoang  vu, do nguyên nhân nhiễm trước, thân nghiệp không thanh tịnh, những  tôn  giả  Sa  Môn hay  Bà  La  Môn  ấy  làm  cho sợ  hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên. Ta  không có thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại  các trụ xứ   xa   vắng,   trong   rừng núi   hoang   vu. Thân nghiệp ta   thanh  tịnh.  Ta   là   một trong  những bậc Thánh”.
Đoạn  kinh trên  đây  đã  xác  định rõ  ràng: “Thân nghiệp không thanh  tịnh,  những tôn giả Sa Môn hay Bà La  Môn ấy làm cho sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên”. Chỗ



chúng ta cần hiểu là thân nghiệp không thanh tịnh. Vậy thân nghiệp không thanh tịnh là gì?
Thân nghiệp không thanh tịnh có nghĩa là thân  còn  thích  dục  lạc  như  ăn  uống  phi  thời, thân  hay  bệnh  tật  đau  yếu,  thân  thích  dâm dục, thân hay đốt lửa giết hại chúng sanh, thân lười biếng ưa thích ngủ nghỉ, thân hay làm những điều ác làm chết và đau khổ các loài chúng  sanh,  thân  đi  đứng  không  nhẹ  nhàng đằm thắm, thân còn đỏ mặt tía tai, thân còn muốn  co tay  đánh  người  khác,  vật  khác,  v.v.. Nói chung thân nghiệp không thanh tịnh gồm có ba hành động chính:
1-   Thân   có   những   hành   động   ác   như trộm cắp cướp giựt lấy của không cho.
2-  Thân ưa thích dâm dục, ưa thích nói chuyện người khác phái, thân có hành động thủ
dâm.

3-   Thân  giết  hại  chúng  sanh,  làm  cho chúng sanh đau khổ.
Khi nào thân nghiệp thanh tịnh thì không còn  những  hành  động  ác  đó   nữa.  Cho  nên, trong  kinh Giáo  Giới  La Hầu La  đức  Phật  dạy phải luôn luôn phản tỉnh lại thân hành nghiệp của mình,  nếu thân hành nghiệp của mình  làm



khổ  mình,  khổ  người  và  khổ  cả  hai  thì nhất định chết cũng không làm, còn thân hành nghiệp nào không làm khổ mình,  khổ người và khổ cả hai thì mới làm. Nếu một người tập như vậy  thì họ  ở    những  chỗ  xa  vắng  hoang  vu, không hề sợ hãi.
Chúng  ta  hãy  lắng  nghe  tiếp  đức   Phật dạy:  “Này  Sa Môn hay Bà  La Môn nào  có khẩu  nghiệp không thanh tịnh... ý  nghiệp không thanh tịnh… Có mạng sống không thanh tịnh, sống trong các trụ xứ xa vắng, trong rừng núi hoang vu, do nguyên nhân nhiễm trước, mạng sống không thanh tịnh, những  tôn  giả  Sa  Môn hay  Bà  La  Môn  ấy làm cho sợ hãi, khiếp  đảm,  bất thiện khởi lên...”.
Đoạn   kinh  trên   chúng   ta   nên   lưu   ý: “Khẩu  nghiệp không thanh tịnh, ý  nghiệp không thanh tịnh”.  Vậy khẩu nghiệp không thanh   tịnh   và   ý   nghiệp   không   thanh   tịnh nghĩa là gì?
- Khẩu có bốn nghiệp không thanh tịnh:

1.  Nói lời hung ác.

2.  Nói không thật, nói dối nói xảo trá.



3. Nói đâm thọc, nói xấu người, nói vu khống người.
4.  Nói lưỡi hai chiều, nói lật lọng.

- Ý  có ba nghiệp không thanh tịnh:

1-  Ý  tham  dục,  ham  muốn  cái  này,  cái kia, xan tham, v.v..
2-  Ý sân hận, thù oán, ghen ghét, tị hiềm, tật đố, v.v..
3-  Ý si mê, lười biếng ham ngủ nghỉ, hôn trầm thùy miên vô ký.
Bây giờ các bạn đã hiểu rõ thân, khẩu, ý nghiệp không thanh tịnh là do những thân, khẩu,  ý  hành  của  các  bạn còn  làm  những  điều ác   trên   đây.   Vậy,   muốn   cho  thân,   khẩu,   ý nghiệp  thanh  tịnh  thì các  bạn  không  nên  làm những điều ác như trên đã dạy. Vậy muốn cho thân hành, khẩu hành và ý hành không làm ác thì chúng ta hãy nghe đức Phật dạy La Hầu La: “Này  La Hầu  La, con nghĩ   thế  nào? Mục đích  của cái gương là gì?
-  Bạch   Thế   Tôn   mục   đích   của   cái gương là để soi, để phản tỉnh lại mình.
- Cũng vậy, này La Hầu La, con phản tỉnh  hay  soi  lại  nhiều lần  nơi  thân hành



nghiệp, khẩu  hành nghiệp, ý  hành nghiệp của con.
- Khi soi vào thân hành nghiệp và con muốn  cho thân hành nghiệp của  con phải làm  gì,  thì   con  phải soi  lại  thân hành nghiệp  như sau: “Thân hành nghiệp này của  con có  thể  đưa  đến  tự  hại; có  thể  đưa đến hại người; có thể đưa đến hại cả hai; thân hành nghiệp này  là  bất  thiện, đưa đến đau khổ, đem đến quả báo đau khổ”.
Này La  Hầu La,  khi  con nghĩ như  vậy, nhất  định con không nên  làm,  nhất  định con  từ  bỏ,  nhất  định  con  cần  phải  thưa lên,  cần  phải  tỏ  lộ  trình bày  trước các  vị Đạo  sư hay  trước các vị  đồng Phạm hạnh. Sau khi  đã tỏ  lộ trình bày cần phải phòng hộ trong tương  lai.
- Còn ngược   lại,  khi  con  soi  lại  thấy thân hành nghiệp này  của  con  không  có thể  đưa  đến  tự  hại, không có  thể  đưa  đến hại  người,  không có  thể  đưa  đến  hại  cả hai,  thì  thân nghiệp  này thiện, đưa  đến an lạc. Một thân nghiệp như  vậy, này La  Hầu La,  con nên làm, cần phải tiếp tục làm. Do vậy, này La  Hầu La,  con phải an trú trong



niềm hoan  hỷ,  tự  mình tiếp  tục học ngày
đêm trong các thiện pháp”.

Chúng ta nên theo lời dạy này mà phản ảnh lại thân hành, khẩu hành và ý hành của mình để thân hành, khẩu hành và ý hành của mình  được thanh tịnh. Khi thân hành, khẩu hành và ý hành của mình được thanh tịnh là chúng  ta  đã  đạt  được  tâm  bất  động  giải  thoát, tức  là  chứng  quả  vô  lậu  A  La  Hán.  Như  vậy, quả A La Hán đâu phải tu tập có khó khăn gì. Phải không các bạn?
Khi thân hành, khẩu hành và ý hành của mình  đã  thanh tịnh  thì sống  bất  cứ nơi  đâu  ta cũng  không  hề  sợ  hãi,  như  đức  Phật  đã   xác định:  “Này   Bà   La  Môn,  Ta  tự   quán   sát mạng sống hoàn toàn thanh tịnh này, tự cảm  thấy lòng  tự  tin được xác  chứng hơn, khi sống trong rừng núi”.
Đoạn  kinh trên  đã  xác  định cho chúng  ta thấy một số Tăng Ni và cư sĩ theo tu học tại tu viện Chơn Như, căn tánh còn phàm phu tục tử, tham ăn, thích ngủ, ham nói chuyện, v.v.. Đời không muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm. Đời vẫn còn đắm danh, tham lợi mà muốn hướng đến Thánh quả A La Hán thì làm sao chứng Thánh được. Phải không các bạn?



Không  tự  xét  thấy  lỗi  mình,  mà  cứ  thấy lỗi  người,  và  còn  bảo  rằng:  “Tu   Viện  Chơn Như  sao không thấy ai tu chứng quả  A La Hán”, hoặc “Những người theo tu học tại tu viện  Chơn Như rơi rụng  như sung”. Tu mà đời  không  chịu  bỏ  thì như  sung rụng  là  đúng chứ sao? Quả A La Hán dành cho những người sống đúng hạnh, tu tập đúng pháp, chứ không phải tu ăn, tu ngủ, tu phá hạnh độc cư, v.v..





KHIẾP ĐẢM VÀ SỢ HÃI


LỜI PHẬT DẠY

“Này   Bà   La  Môn, xưa kia  khi  Ta chưa  chứng ngộ  chánh đẳng  giác,  khi còn  là  Bồ  Tát,  Ta nghĩ   như  sau: “Thật khó kham  nhẫn những trụ xứ xa vắng, trong  rừng núi hoang  vu! Thật khó khăn đời  sống  viễn  ly!  Thật khó  thưởng thức đời sống độc cư! Ta  nghĩ rằng: Rừng núi làm rối loạn tâm trí vị Tỳ Kheo chưa chứng thiền định!
Này  Bà  La  Môn, rồi  Ta   suy  nghĩ: “Những   Sa  môn  hay  Bà   La  Môn nào, thân  nghiệp  không   thanh  tịnh,   sống trong  các trụ xứ xa vắng, trong  rừng núi hoang  vu, do nguyên  nhân  nhiễm trước, thân nghiệp không thanh tịnh,  những tôn  giả  Sa  Môn  hay  Bà  La  Môn  ấy  làm cho  sợ  hãi, khiếp  đảm,  bất  thiện  khởi lên.  Ta  không có  thân nghiệp không thanh tịnh, sống tại  các trụ  xứ xa vắng, trong  rừng núi hoang  vu. Thân nghiệp

Õ


Ta  thanh tịnh.  Ta  là  một  trong  những bậc Thánh.
Này Sa Môn hay Bà La Môn nào có khẩu  nghiệp không thanh tịnh...  Có   ý nghiệp không thanh tịnh...  Có   mạng sống  không thanh tịnh,  sống  trong  các trụ  xứ  xa  vắng,  trong rừng núi  hoang vu,  do nguyên  nhân  nhiễm  trước, mạng sống  không thanh tịnh,  những  tôn  giả Sa  Môn  hay  Bà  La  Môn  ấy  làm  cho  sợ hãi, khiếp đảm, bất thiện khởi lên...
Này   Bà   La   Môn, Ta   tự   quán sát mạng sống hoàn toàn thanh tịnh này, tự cảm  thấy lòng  tự  tin được  xác  chứng
hơn, khi  sống trong  rừng núi”.


CHÚ GIẢI:

Đoạn  kinh trên  đây  vừa  trả  lời  và  vừa xác  chứng  về  câu  hỏi  thứ  nhất  của  các  bạn: “Thưa Thầy chúng  con có  tu chứng  quả  A La Hán trong đời này không?”
Thường đặt ra câu hỏi là có câu trả lời, nhưng câu hỏi này đã có câu trả lời rồi, các bạn

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


không  chú  ý  mà  thôi.  Câu  hỏi  này  có  bốn  điều nghi ngờ và một điều thiếu lòng tin:
1-        Một  là  nghi  mình  không  đủ  khả  năng tu tập.
2-        Hai  là  nghi  Thầy  tu  tập  chưa tới  nơi tới chốn.
3-        Ba  là  không  tin pháp  mình  đang  tu

tập.



4-        Bốn  là  thiếu  lòng  tin nơi  mình,   nơi

Thầy.

Phần đông những tu sĩ hay cư sĩ về tu tập tại  tu  viện  Chơn  Như,  hay hỏi  Thầy  trong  đời này   mình   có   tu   chứng   quả   A  La  Hán   hay không?
Nếu thẳng thắn trả lời câu hỏi này có hai điều bất lợi cho người hỏi:
1-   Nếu  nói  rằng  được thì người  này  sinh ra ngã  mạn,  cống  cao, tham  vọng  tu  tập  quá sức khiến cho cơ thể thành bệnh, v.v..
2-   Còn  bảo  rằng  tu  không  được thì lại sinh  ra lười biếng, tu lấy có hình  thức chứ tâm ý không còn nhiệt tâm, nhiệt huyết tu tập.
Còn  riêng  chúng  tôi  tu  hành  là  để  tìm sự giải  thoát  cho cuộc  đời  đầy  đau khổ  của  mình



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!