Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN BIẾT-TẬP 3-5



rửa tâm dục tham ca bn. Chỉ có bấy nhiêu đấy thôi mà quý bạn sẽ thấy một cuộc đi giải thoát, một bầu tri an lạc hnh phúc tuyệt vi mà ni thế tục không thể nào ngờ đƣợc, không thể nào hƣng đƣợc.

Ôi! Đƣc sinh làm ni khó, gặp đƣc chánh Phật pháp còn khó hơn. Thế mà đƣc làm ni, đƣc gặp chánh Phật pháp, chúng ta lại không tu tập thì quá ung phí một đi ni. Phải không hi các bn? Chúng tôi phải thành thật tiếc thay cho các bạn đấy!  Các bạn có biết không? Chúng tôi cũng từ pháp này tu tập sáu tháng làm ch sinh, già, bnh, chết.

Khi các bạn tu tập đã từ bỏ, thoát ly gọt rửa tâm dục tham ca bạn xong thì các bạn lại tiếp tục đặt nhng niệm khác nhƣ: từ bỏ tâm sân hn, sng vi tâm không sân hn, gọt rửa tâm hết sân hận và luôn luôn khi lòng từ mẫn thƣơng xót tt c cng sanh loài hữu tình. Có tu tập nhƣ vậy mi đúng theo li Đức Phật đã dạy: V ấy từ bỏ sân hn, v ấy sống với tâm không sân hn, v ấy sng ng từ mn thương xót tất c chúng sanh hữu tình, v y, gọt rửa tâm hết sân hn”.

Khi các bạn tu tập từ b tâm sân hn, sng vi tâm không sân hn, gọt rửa tâm hết sân hận sng vi lòng từ mẫn thƣơng xót tất c cng sanh loài hữu nh xong thì các bạn lại tiếp tục tu tập quét sạch hôn trm thùy miên, theo nhƣ lời Đức Phật đã dy: V y từ bỏ hôn trm thùy miên, sống thoát ly hôn trm ty miên, với tâm ng hướng về ánh sáng chánh nim tnh giác, gọt rửa tâm hết hôn trm ty miên”. Các bn c theo lời dạy này mà đặt niệm hôn trm thùy miên trƣc mt mà tác ý tu tập thì sẽ không còn thùy miên và hôn trm nữa.

Tất c các bạn v tu viện Chơn Nhƣ tu tập, hầu hết các bạn đu b hôn trầm thùy miên tấn công d di, cuối ng




các bạn đu là nhng ni lính chiến bại mặt trận này. Các bạn có biết tại sao các bạn thất trận không? Các bạn thất trận các bạn không theo lời Phật dạy tu tập đúng cách xả tâm.

Khi tu tập phá dp hôn trm thùy miên đã không còn nữa thì các bạn tiếp tục tu tập từ b trạo cử, hối quá theo nhƣ lời Đức Phật đã dạy: V y từ bỏ trạo cử, hi quá, sống không trạo cử, nội tâm trm lặng, gọt rửa tâm hết trạo cử, hối quá”. Cứ theo lời dạy này mà đặt niệm trạo cử, hối quá dùng pháp nhƣ lý tác ý mà quét cho sch trạo c hối quá.

Khi tu tập phá dp trạo cử, hối quá đã không còn nữa thì các bạn tiếp tục tu tập từ b nghi ngờ theo nhƣ lời Đức Phật đã dạy: V ấy từ bỏ nghi ngờ, sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân, lưỡng lự, gt rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp”.

Tn đây phƣơng pháp tu tập đdp sạch và đoạn dứt năm triền cái. Khi dứt sạch năm triền cái thì các bạn đã chng đạo qu giải thoát không còn nghi ngờ nữa. Các bạn hãy nên theo thứ lp tuần tự các pháp trên đây mà tu tập cho k lƣỡng, đng tu tập vội ng; không tu tập thì thôi mà đã tu tập thì phải tu tập cho có chất lƣợng, cho có căn bn, ch đng tu tập lấy có, vừa ung công sức vừa phí ung cuộc đi; mang tiếng đi tu mà chng làm chủ sanh, già, bệnh, chết không chấm dứt tái sanh luân hồi thì rất nhục nhã, cũng giống nhƣ các thầy Đại Thừa và Thiền Tông vậy.


SANH ĐÃ TẬN PHẠM HẠNH MỚI XONG

Trong  kinh  Thp  Nhị  Nhân  Duyên  Đức  Phật  đã  dạy:
“Người mới vào tu, phải tu tập đoạn dứt dun “sanh”.




Kinh Thập Nh Nhân Duyên có mƣi hai duyên nhƣ mắt xích sắt, duyên này có thì duyên kia có, duyên này diệt thì duyên kia diệt. Kinh này bắt đu từ duyên vô minh nhƣ sau:

1- minh không thấu rõ các pháp thế gian lầm chấp chúng thật có nên hành đng chạy theo tâm ham mun, sanh ra các ác pháp, to biết bao nhiêu nghiệp khđau, vì vậy kinh dạy: Vô minh sanh hành”.

2- nh đng theo ng ham muốn dục lạc chạy theo ái dục sanh ra thức, nên kinh dạy: hành sanh thc”.

3- Thc, kết hp vi noãn châu tinh trùng sanh ra
danh sắc nên kinh gọi: “thức sanh danh sắc.

4- Danh sắc, là thân và tƣởng ca con ni, lần lần phát triển đầy đủ: mt, tai, mũi, miệng, thân ý. Mt, tai, mũi, ming, thân ý tiếp xúc vi sáu trầnn ngoài nên kinh dạy: “Danh sắc sanh lc nhập”.

5- Lc nhp, có nghĩa là sáu căn và sáu trn. Sáu căn gồm có: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Sáu trần gồm có: sc, thanh, hƣơng, vị, xúc, pháp. Sáu trần tiếp xúc sáu căn, nên kinh dạy: “Lục nhập sanh ra xúc.

6- Xúc, tạo ra sự va chạm êm m, ngọt i, kh hỷ, khả lạc nên kinh dạy: “Xúc sanh ra thọ”.

7- Thọ, sanh ra cm giác thích thú, cm mến, giận hn, thƣơng ghét nên kinh dạy “Thọ sanh ra ái”.

8- Ái, là yêu mến, thƣơng mến, ƣa thích nên c giữ lại, bảo thủ không muốn xa lìa nên kinh dạy: “Ái sanh ra hu”.

9- Hữu, có, có vt này, vật kia, nhƣ: thân tứ đại, thân n un, nhà cửa, ca cải tài sản, tin bc, cha, m, anh,




em, chị, em, bà con quyến thuc, thân bng v.vnên kinh dạy: “Hữu mới sanh ra thủ”(Hữu là có Ngã–Pháp–Nhân).

10- Thủ, giữ lại, không đ cho mất mát, gọi bảo th, nên kinh dạy: “Thủ (th giữ) mới sanh ra sanh (sanh y)”.

11- Sanh, phải nói đ là "SANH Y", sanh y ca cải, tài sản, vật cht, sự nghip, cha m, v con, anh em, ch em, thân bng quyến thuc, bạn bè v.v... nhƣ trên đã nói. Do thế, khi tài sản ca cải b mất thì sẽ buồn rầu bnh kh chết, cha m vợ con chết cũng sanh ra buồn ru, đau khphiền ng nên kinh dạy: Sanh sanh ra ưu bi, sầu khổ, bnh, chết”.


12- Ƣu bi, su kh bệnh chết là duyên cuối ng ca Mƣi Hai Duyên này, hp li thành thế giới kh đau ca kiếp ni qun quanh luân hồi mà ni đi không rõ thấu nên gọi là «Vô Minh».

Sau khi quán xét Mƣi Hai Nhân Duyên, cái này có thì cái kia có, cái này sanh thì cái kia sanh, cái này dit thì cái kia diệt.

Nhƣ đã nói trên, i Hai Nhân Duyên nầy hợp lại là thế gii đau khca con ni thành hình, Mười Hai Nhân Duyên này rã tan thế gii hết khổ đau, hoại diệt.

Muốn thoát kh thì Mƣi Hai Nhân Duyên này phải rã tan. Vậy, rã tan nhƣ thế nào và duyên nào rã trƣớc?

Kinh điển phát triển Đại Thừa Thiền Đông Độ nhắm vào duyên «Vô minh» phải phá trƣc bng Minh”, minh tc là trí tuệ.

Muốn  triển  khai  Minh trí  tuệ,  các  nhà  Đại  thừa  và Thiền Đông Độ dùng pháp hành ức chế niệm thiện nim ác, cho tâm không nim thiện nim ác đnh do tâm định thì phát tu (chng niệm thiện nim ác bản lai diện




mc hiện tin), bản lai diện mc hiện tin Phật Tánh, mà Phật Tánh nh giác, tánh giác tức trí tuệ. Do nhng pháp hành tu tập đtriển khai trí tuệ nhƣ vậy. Họ đã lm, không ngờ đưng lối tu tập ấy lại khai m tưởng tu. Khi tƣởng tuệ đƣc khai m thì luận ca các nhà Đại thừa siêu việt tưởng, nên không tôn giáo nào tranh luận hơn đƣợc, nhất lý Bát Nhã ca Đại Thừa.

Do luận siêu việt tưởng Bát Nhã nên nó đã phá luôn Phật Giáo chính gốc: « Vô  kh ổ,  tập,  diệt,  đạo  ». Còn,  Phật Giáo Nguyên Thy chính gốc, không có lun tranh hơn thua, không có luận siêu việt tưởng như  vy, ch dạy thẳng (T Diu Đế) đời ni khổ, ngun nhân sinh ra đau khổ, trạng thái tâm hết kh đau và tám cách thức tu tập (Bát Chánh Đạo) để diệt ngun nhân sinh ra khổ. Những pháp hành này c thể đ mọi ni ai cũng tu đƣợc, cũng thực hiện đƣc sự giải thoát hết khnhƣ nhau.

thế, kinh điển Nguyên Thủy nhắm vào duyên sanh” (sanh y) đ đoạn dứt nó, đoạn dứt nó thì ƣu bi, sầu khổ, bnh chết cũng đon dt, nên kinh thƣng nhắc đi nhắc lại: Sanh đã tn Phm hnh mi xong”.

Nếu một ni tu tập quyết tìm đƣng giải thoát ra khỏi cuộc sống trần lao này, thì phải buông xả nhƣ Đức Phật và các bậc Thánh ng: không trang đim làm đp, ca cải tài sản bỏ sạch, cha m, anh  em, ch em v con đu bỏ xung hết như trong bài “Vưt thoát ” đã dạy.

Đó là, bứt tất c nhng si dây xiềng xích đang trói rất chặt mọi ni. Chỉ có nhng bậc chân tu thấy đƣc nhân qu nên h đã mnh dạn dứt b sạch đ vƣt thoát cnh đi thế tc.

S dứt b t thoát này, không phi ai cũng làm đƣc
tuy  nói  rất  d nhƣng làm  rất  khó.  Ngƣi tm thƣng




không thể làm đƣợc, trong kinh dạy rất đơn giản: Sanh đã tận Phm hnh mới xong hoặcdun SANH (sanh y) dứt thì bịnh tử sầu khổ ưu bi dt”. Những danh từ nghe thì d dàng, nhƣng đƣơng đầu trƣc ca cải, tài sản châu báu, ngọc n cùng cha m, anh em, ch em, chng con, xả bhay đoạn tn (sanh y) là mt vic không phi d m.

Nếu không đoạn tận (SANH Y), thì không thể thực hiện đƣợc, con đƣng giải thoát ca Đạo Pht.

Tại sao vậy?.
Tại vì, Đạo Phật gọi đạo giải thoát mà không bứt đƣc nhng si dây xiềng xích hình đó đang trói buộc thì làm sao gọi là giải thoát đƣợc?.

Hin giờ, nhng ni đang tu theo Đạo Pht, "đời chng muốn bỏ mà đạo lại muốn thêm", hai tay đu nắm hết. Do
đó, cuộc sống tu hành Đi chng ra Đi, Đạo chng ra
Đạo.

Hin giờ, quý Thầy các Cƣ tu hành chng đến đâu, ch tu theo kiểu đi chng ra đi, đạo chng ra đạo, rất ung công cho một đi tu hành. Tu mãi ch còn lấy Phật Giáo làm danh làm lợi cho cuộc sống thế tc.

Tu theo Phật Giáo, ni tu hành phi đoạn dứt "SANH Y", có đoạn SANH Y thì tâm mới đƣc giải thoát đau khổ. Tâm có đƣc giải thoát đau khổ thì tâm mi có thanh tnh; tâm có thanh tịnh thì tâm mới nhập Thin định; Tâm nhập đƣc Thin định thì tâm mới làm ch đưc sự sống chết.

Ngƣi không đoạn dứt "SANH Y", không thể nào ly dc ly ác pháp và nhập Tứ Thánh Định đưc, do không ly dc ly ác pháp và nhập Tứ Thánh Định đưc, thì không còn pháp nào tu tập làm chủ sanh tử và chấm dứt luân hi.




Đƣng về xứ Phật không khó, nhƣng khó cho nhng ai, không muốn dứt bỏ đi sống dc lạc và tình cảm thương mến ở thế gian.

Pháp môn tu hành ca Đạo Phật không có huyn bí và vĩ đại,  ch  cần  h iểu   đờ i  sốn g  th ế  gian   kh vô  v àn  v à
 kh  mu ôn  kiếp.  Đời  sốn g  xu ất  th ế  gian   dứt  k h ổ,  h ết  kh  , thì ch còn một đi sống này na mà thôi, một đi sống tu theo Đạo Phật hoàn toàn sẽ chấm dứt khổ.






 L I P H ẬT  DẠ Y

PHÁP HƢỚNG TÂM



«Này các Thầy Tỳ Kheo! Do không như tác ý các lậu hoặc chưa sanh đưc sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh đưc ng trưng». «Này các Thầy Tỳ Kheo! Do như tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, các lậu hoặc đã sanh đưc đoạn trừ».

 CH Ö  GI I:

Ngƣi phàm phu tục tử nhng ni tu hành theo pháp môn ca Đại Tha, do không biết Pháp Như Tác Ýnên hng ngày sống trong các lậu hoặc mà không biết lậu hoặc, thế lậu hoc chƣa sinh lại sinh khởi, lậu hoặc đã sinh lại tăng trƣng, do đó cuộc sống kh đau lại càng kh đau hơn. Cho nên đoạn kinh này dạy: Này các Thy Tỳ Kheo! Do không như tác ý, các lậu hoặc chưa sanh đưc sanh khởi và các lậu hoặc đã sanh được ng trưng”.

Đi ni sinh ra không gặp chánh pháp của Pht, nên phải chịu nhiều sự khđau ca kiếp làm ni trong qui luật nhân quả. Ngƣc lại, đƣc sinh làm ni, đƣc gặp chánh pháp ca Pht, thì ni ấy ni có diễm phúc nhất trn gian, vì gp đƣc chánh pháp nên đƣc nghe lời dạy này: “Này các Thy Tỳ Kheo! Do như tác ý, các lậu




hoặc chưa sanh không sanh khởi, các lậu hoặc đã sanh đưc đoạn trừ ”.

Nói đến lậu hoặc nói đến sự đau kh ca con ni; nhƣng muốn cho kiếp làm ni không còn kh đau đđƣc sống yên vui, thanh thản, an lạc s thì nên y theo lời Đức Phật nhắc nhcác vị Tỳ Kheo phải luôn luôn tu tập pháp hƣng tâm “Như Tác Ý”. Nếu không dùng pháp hƣng tâm nhƣ lý tác ý thì sự đau kh sẽ đến vi quý vị sẽ làm cho quý vị kh đau hơn nhiều. Nếu quý vị biết dùng pháp nhƣ tác ý hng giây, hng phút, hng giờ, hng ngày, hng tháng, hng năm thì sự kh đau sẽ không đến vi quý vị và sẽ chm dứt nh viễn.

Qua đoạn kinh ngắn gọn nhƣ trên Đức Phật đã xác đnh pháp  Như  Lý Tác Ý”  rất là  nhiệm munó  giúcho chúng ta thoát mọi sự kh đau trong kiếp sống làm ni, làm ch đƣc nhân qu cả sự tái sanh luân hồi.

Nhƣ thế pháp Như Tác Ý có một công năng rất lớn trên đƣng tu tập theo Đạo Phật đ đạt đƣc kết qu nhƣ ý muốn là: “Làm ch sanh già, bệnh, chết”.

Lúc còn đang nhập thất, chúng tôi ngộ đƣc pháp Như Lý Tác Ý nên suốt trong sáu tháng tinh cần tu tập pháp này vi câu trch pháp: “Tâm như cc đất phải ly dc ly ác pháp nhập thiền”. Chỉ có câu  gắn gọn nhƣ  vậy  mà chúng tôi đã nhập đƣc Sơ Thiền một cách d dàng không có khó khăn.

Chín năm trời nhập tht, tu không đúng pháp rất là vất vả gian nan, nhƣng đến khi dùng pháp Như Tác Ý chcó thi gian ngắn mà chúng tôi làm ch đƣc thân tâm, kết quả giải thoát hoàn toàn.




NHNG GÌ CN THÔNG HIU PHẢI THÔNG HIU TỨ NIỆM X PHÁP NÔN LÀM CHỦ
SANH GIÀ – BỊNH – CHẾT

 Hỏi  : nh thưa Thầy, trong tập hai Đường V Xứ Phật, bìa xanh, mc nhân qu trang 160 Thầy viết khi Đức  Phật nhập Niết n, Ngài b đau ng nên bảo ông Anan trải tọa c để nằm nghỉ.

Đạo Phật đạo làm ch sanh, già, bnh, chết, c sao Đức
Phật lại bị đau ng như vy?

Khi nhập diệt Đức Phật phải nhập định ba lần xuôi ngược rồi mới nhập diệt, như vậy là ý nghĩa gì?

Nếu kinh sách Đại Tha nói Đức Phật đau lưng thì không th nào đưc ghi vào sách ca Thầy, mong Thầy ch cho chúng con hiểu.

 Đáp : Trong câu này gồm có ba câu hỏi:

- Làm ch bnh sao Đc Phật lại b bnh đau lƣng?
- Làm ch chết sao Đức Phật không tự tại nhập diệt mà phải nhập đnh ba ln?
- Tại sao đoạn kinh này li đƣc ghi vào sách ca
Thầy?

- Nhƣ các con đã biết trong kinh sách Nguyên Thủy, Đức Phật dạy  phƣơng cách làm chủ  bnh  là  pháp  môn  Tứ Nim Xứ. Pháp môn T Nim Xứ pháp môn khắc phục nhng sự đau kh ca thân và tâm (Trên thân quán thân để khắc phục tham ưu…) Tức làm ch sanh, già, bnh, chết. Ngƣi cha sinh ra pháp môn ấy Đức Phật. Thế sao Đức Phật lại còn b bnh đau lƣng? Một điều vô hết sức. Giáo lý Đạo Phật có mâu thuẩn nhau không?, có lƣờng gạt ni ta không? Mà lại viết nhng điều này.




Ai đã viết điều này trong kinh sách Nguyên Thủy? (Đức Phật đau ng) Ai đã phbáng Đức Phật nhƣ thế này? (Nói láo). Nếu không có Thy thực hiện không có các đ tử ca Thầy tu tp pháp Tứ Nim Xứ đẩy lui các bnh khkh nơi thân thì ai ni minh oan cho Đức Phật xác đnh Tứ Nim Xứ pháp môn làm ch sanh, già, bnh chết thật sự. Trong khi đó kinh sách Nguyên Thy ghi chép Đức Phật đau ng rõ ràng bng giấy trng mc đen.

Chúng tôi chng nghiệm đƣc pháp môn Tứ Nim Xứ đẩy lui các chƣng ngại pháp trên thân tâm n mnh dạn tuyên b vi các bn: “đoạn kinh kết tập này sai do
 n gườ i  sau  th êm  vào  để  c h e  đậy  ph áp  m ôn  Đại  Th ừa  tu  h ành
 kh ôn g  làm  ch b nh  ”.

Hơn 25 thế k trôi qua ai cũng nghĩ rng Đức Phật chƣa có làm ch bnh khổ. Ni tu xong đọc đến đoạn kinh này rất đau ng và thương cho Phật Giáo. thƣơng mình, thƣơng ni. Đức Phật phải b hết sự giàu sang, quyn thế, dục lạc thế gian, phải hy sinh c thân mng đ mƣu cầu hnh phúc an vui cho mọi ni. Ngài ni cha sinh ra Phật Giáo, vậy ai n nhẫn tâm viết nhng đọan kinh ghép vào trong kinh sách ngun Thy để đánh lừa mọi người khác, để ph ng Đức Phật tht là đau lòng, nhng k ấy sẽ bđọa xứ ác, chịu khđau vô lƣng.

- Đức Phật nhập Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền Tứ Thiền  nhập  xuôi  nhnc ba  lần  rồi  nhập  vào  Tứ Thiền xả b báo thân. Đó Thân nh Di Chúc lần cuối cùng đ nhắc ngƣi đi sau: Tứ Thánh Định mới là Chánh Đnh, mi là Thin Của Phật Giáo”.

Nhập Tứ Thánh Đnh, xả b báo thân ng xác đnh cho ni đi sau biết: Ch có bốn thiền này mi làm chủ sanh, già, bnh, chết, ngoài bốn thiền này không có thiền nào làm ch trn vẹn bốn sự đau kh ca kiếp ni đưc.




Các bạn nên lƣu ý: Nhng thiền ca ngoại đo, làm chđƣc cái này thì không làm ch đƣc cái kia.

- Đoạn kinh này rút ra từ trong kinh tạng Nguyên Thủy, đƣc ghi vào sách Đƣng Về Xứ Pht, đ xác đnh cho mọi ni thấy cái sai ca nhng ni kết tp kinh sách thƣng thêm vào và bớt ra làm kinh sách nguyên gốc ca Phật Giáo mất giá tr nhƣ đoạn kinh trên đây. Trong sách Đƣng Về Xứ Phật (bìa xanh) ni biên tập đã cắt bđoạn kết luận ca bài Nhân Qu làm mất ý nghĩa. Xin cáo lỗi cùng các bn.






 L I P H ẬT  DẠ Y

THIN TH



“Không thở ra thvào Tâm trú vào chánh đnh Không tham ái tịch tnh Với tâm an bất động Như đèn ng chợt tt
Tâm gii thoát Niết Bàn”. (Tƣơng Ƣng Kinh).

 CH Ö  GI I:

Thiền Thứ Tƣ ca Đạo Phật một thứ thin rất mầu nhiệm tuyệt vi, nó tịnh ch đƣc hơi th, nhƣ câu kệ thứ nhất dạy: Không th ra th vào”, nó làm ch sự sống chết một cách tự tại, muốn thở là th, muốn không thở không thở.

Đọc bài k trên Đc Phật đã xác đnh rõ ràng ch không nhƣ các nhà Đại Thừa đã cố ý dìm mất loại thiền này bng cách suy luận cho nó là thiền phàm phu, thin Nhị Thừa và thin ngoại đạo. Tht là đau ng phải không các bn?




Đây, các bạn hãy lắng nghe chánh đnh ca Đạo Phật rt tuyệt vi, khi hành giả nhập đnh thì:

“Không thở ra, thvào
Tâm trú vào chánh đnh

Thƣa các bn! Thiền đnh ca Đông Độ Đại Thừa có nhập đƣc nhƣ vậy không? Nếu nhp không đƣc nhƣ vậy sao gọi tự tại trong sinh tử đƣợc? Sao gọi thu thần nhp Niết bàn?

Muốn nhập chánh đnh đ làm ch sự sống chết đƣc nhƣ vậy thì tâm không còn tham ái; tâm không còn tham ái thì tâm mới tịch tịnh nhƣ câu knày: “Không tham ái tch tịnh”.

Vậy tham ái gì? Tham ham mun; ái yêu thích. Con ni vốn sinh ra đã b đau kh tâm tham ái. Khi tâm tham ái diệt thì khđau và luân hồi chấm dt.

Nếu tâm không tham ái thì tâm đƣc tịch tịnh. Tâm đƣc tịch tịnh thì tâm mi an trú. Tâm có an trú thì tâm mới bất đng trƣc các pháp, nhƣ câu knày dạy: Với tâm an bất động ”.

Khi tâm đã an trú bất đng thì lúc bây giờ chúng ta muốn chết lúc nào cũng d dàng không có khó khăn, không có mệt nhc: “Như đèn sáng chợt tắt”

Tu tập nhập đnh đƣc nhƣ vậy, các bạn có thấy hnh
phúc không?

Lúc bây giờ chúng ta ch cần lìa trng thái Tứ Thiền bng lệnh ca Bảy Năng Lực Giác Chi (Thất giác chi) thì ngay tc khắc ta vào Niết Bàn nhƣ câu kđã dạy: “Tâm gii thoát Niết bàn ”.




Tóm lại, bài k trên đây ch cho chúng ta biết pháp môn và cách thức tự tại nhập Niết bàn, ch nó không phi bài pháp đcác bạn tu tập nhập Tứ Thiền suông. Các bạn nên lƣu ý. ni đã dùng bài k này đ tu tập nhp Tứ Thiền là không đúng pháp.

Thƣa các bn! Nếu các bạn muốn nhp Tứ Thiền thì các bạn hãy trở về tu tập giới luật qua các giới hành nhƣ sau: Tứ Chánh Cn, Tứ Nim Xứ, Thân hành Nim, v.v... chcác bạn đng trên bài k này tu tập, bng không thì các bạn đã tu tập sai pháp rồi các bạn ạ!






 L I P H ẬT  DẠ Y

KINH BÁT THÀNH



“Bạch Tôn Giả Ananda, có pháp độc nht do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, bậc A La n, Chánh Đẳng Giác tun bố, nếu có Tỳ Kheo nào không phóng dt, nhiệt tâm tinh cần sống hành trì pháp y, thời tâm chưa giải thoát ca v ấy đưc giải thoát, hay các lậu hoặc chưa được đoạn tr, đi đến đoạn tr, hay pháp an ổn khỏi các ách phưc, chưa đưc chng đạt được chng đạt?”.

 CH Ö  GI I:

Đoạn kinh trên đây do gia chủ Dasama hỏi Tôn Giả Ananda có một pháp độc nhất ca Đức Phật đƣc tu tập đ đi đến kết qu giải thoát hoàn toàn chấm dứt tái sinh luân hi không?

Nhƣ các bạn đã biết pháp ca Phật có rất nhiu, có đến ba mƣơi bảy pháp môn tu tp từ thấp đến cao. Thế mà, gia ch Dasama lại hỏi có mt pháp độc nhất nào ch tu tập pháp này sẽ đi đến cứu cánh, thì biết tr lời làm sao các bạn nhỉ? Nhƣng ông Ananda đã thay Đức Phật tr lời câu




hỏi này: Không phải ch có một pháp độc nht mà có đến c tám pháp độc nhất, pháp nào cũng tu tập đi đến kết quả giải thoát rốt ráo”. Cho nên bài kinh này đƣc lấy tên Kinh Bát Thành trong Trung Bộ Kinh, tập II, trang 30.

Nhƣng kinh Bát Thành này đã b ni sau thêm vào Bốn Định Sc. Bốn Định Sắc bn loại đnh tƣng. Bốn loại đnh tƣởng thì không thể nào tu tập đi đến rt ráo đƣợc, chính Đức Phật đã nhập các loại đnh tƣởng này còn phải b mà trở về tu tập Bốn Định Hữu Sắc mi thấy đƣc sự giải thoát làm ch sanh, tử chm dứt luân hồi.

Bốn loại đnh sắc này đƣc cng chung lại vi tám pháp đầu tiên 12 pháp, nhƣ vậy bài kinh này đúng ra phải có tên “Thập Nhị Thành chđâu gọi “Bát Thànhđƣợc. Đó cái sai thứ nhất trong bài kinh này, do các vị TSƣ kết tập kinh.

Cái sai thứ hai đon kết ca bài kinh này: “Bạch Tôn Giả Ananda, như ni tìm một kho tàng cất du, trong lúc tìm đưc 11 kho ng ct dấu. Cũng vậy bch Tôn Giả, như ngôi nhà người ta có đến 11 cửa, khi ngôi nhà bị cháy, thì ch do một cửa ni ta cũng có thể thoát ra một cách an toàn. Cũng vy, bạch Tôn Giả, ch với mt cửa bất tử trong
11 cửa bất tử này, con có th đạt được sự an toàn cho con”.

Tựa kinh đ “Bát Thành mà kết luận “Thập Nhất Thành”, còn trong bài kinh này thì nêu ra 12 pháp tu tập. Kinh viết nhƣ vậy có nhất quán không? Các bạn nghĩ sao về nhng việc làm ca các bậc tôn túc ngày xƣa? Họ có thấy khi kết tập kinh sách Phật một trách nhiệm vi Đạo Phật con ni đi sau không?

Trong một bài kinh Nguyên Thy mà còn thêm bt, làm sai lệch nhƣ thế này thì c tạng kinh Nguyên Thủy hiện có




hẳn phi còn sai biết bao nhiêu lần trong ấy. Nhƣ thế kinh sách Đại Thừa kinh phát triển làm sao chúng ta tin đƣợc. Phải không hi các bn? Cho nên Đc Phật bảo: “Đừng có tin kinh tạng...”.

Vậy mà các bạn c gặp bài kinh nào nói Phật thuyết các
bạn tin ngay, tin một cách mù quáng, mê mờ, b lừa đảo mà không biết. Thật đáng thƣơng cho các bn!.

Qua kinh nghiệm tu hành, chúng tôi xét thy trong bài kinh này có nêu ra tám pháp môn độc nhất tu tập đi đến cứu cánh hoàn toàn đúng lời dạy ca Đức Pht. Tám pháp này gồm có:







1/ TH IỀN


TH NHT:
THIN LÀ PHÁP ĐC NHẤT
TRONG KINH BÁT THÀNH



Sơ Thin này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật pháp hữu vi, do suy tác thành, thời sự vật ấy vô thường chịu sự đoạn diệt.” Vy vng trú đây đoạn trừ đưc các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa đưc đoạn tr, do tham luyến pháp này, do hoan h pháp này, v ấy đoạn trừ đưc năm h phần kiết sử, đưc hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cnh gii y, khỏi phải trở lui đi này. Này Gia ch như vậy là pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Gi, Kiến Giả, bậc A La Hán, Chánh Đng Giác tun bố...”

 CH Ö  GI I:

Đây pháp độc nhất thứ nhất trong tám pháp, các bạn nên lƣu ý đó là Sơ Thiền. Cho nên chỉ cần nhắm vào Thiền thứ nhất mà tu tập đ tâm bạn hoàn toàn ly dục ly ác pháp. Các bạn không cần phải thay đổi pháp môn nào khác, nó pháp độc nhất đi đến cứu cánh. Nhớ lại năm xƣa chúng tôi cũng từ pháp môn này mà đi đến rốt ráo.




lúc bây giờ chúng tôi không đƣc ai hƣng dn, nên chbiết nhƣ tác ý ly dc ly ác pháp cuối cùng chúng tôi viên mãn công đức tu hành vi pháp độc nhất Sơ Thiền này.







2/ NH TH I N


TH HAI:
NH THIN LÀ PHÁP ĐC NHẤT
TRONG KINH BÁT THÀNH



“Thin thhai này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật gì là pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt.” V y vng trú đây đoạn trừ đưc các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoc chưa đưc đoạn tr, do tham luyến pháp này, do hoan h pháp này, vị ấy đoạn trừ đưc năm h phần kiết sử, đưc hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cnh gii y, khỏi phải trở lui đời này. Này Gia ch như vậy pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Giả, Kiến Giả, Bậc A La n, Chánh Đẳng Giác tun bố...”.

 CH Ö  GI I:

Khi Sơ Thiền đã nhập đƣc thì Nhị Thiền không còn có khó khăn nữa. đây chúng ta phải hiểu pháp môn Nhị Thiền mà Đức Phật gọi pháp môn độc nht. Độc nhất đây không có nghĩa duy nhất có một pháp này tu từ đầu đến cuối mà thành tu đạo giải thoát. Nếu gii luật chƣa nghiêm chnh thì các bạn phải biết mình còn phải tu bao nhiêu pháp nữa thì gii luật mi đƣc nghiêm chnh. Khi giới luật đƣc nghiêm chnh, lúc bấy giờ các bạn mi ôm mt pháp độc nhất này. Cho nên độc nhất đây một trng thái thân tâm thanh tịnh trong giới lut. Các bạn có hiểu chƣa? tâm có nghiêm chnh trong giới luật thì pháp Nhƣ Lý Tác Ý mi có hiu quả.










3/ TAM TH IỀN

TH BA:
TAM THIỀN LÀ PHÁP ĐC NHẤT
TRONG KINH BÁT THÀNH



“Tam Thiền này pháp hữu vi, do suy tác thành. Phàm sự vật pháp hữu vi, do suy tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chịu sự đoạn diệt.” V ấy vng trú đây đoạn trừ đưc các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa đưc đoạn tr, do tham luyến pháp này, do hoan h pháp này, v ấy đoạn trừ đưc năm h phần kiết sử, đưc hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cnh gii y, khỏi phi trở lui đi này. Này Gia ch như vậy pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Gi, Kiến Giả, Bậc A La Hán, Chánh Đng Giác tun bố...”.

 CH Ö  GI I:

đây các bạn nên lƣu ý đoạn kinh này: V ấy vng trú ở đây đoạn trừ đưc các lậu hoặc”. Vững trú có nghĩa giữ gìn tâm ở trong trng thái Sơ Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, v.v...

Bất c các bạn một trong tám trng thái này, tiếp tục đoạn tr các lậu hoặc, nếu đoạn tr xong thì các bạn lin chng qu A La n, ch không phải còn tu tập pháp môn nào nữa.








4/ T THI N

TH TƢ:
T THIỀN LÀ PHÁP ĐC NHẤT
TRONG KINH BÁT THÀNH



“Tứ Thiền này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật pháp hữu vi, do suy tác thành, thời sự vật ấy vô thường chịu sự đoạn diệt.” Vy vng trú đây đoạn trừ đưc các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa đưc đoạn




tr, do tham luyến pháp này, do hoan h pháp này, v ấy đoạn trừ đưc năm h phần kiết sử, đưc hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cnh gii y, khỏi phải trở lui đi này. Này Gia ch như vậy pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Gi, Kiến Giả, Bậc A La Hán, Chánh Đng Giác tun bố...”.

 CH Ö  GI I:

đây các bạn nên lƣu ý đoạn kinh này: Và nếu các lậu hoặc chưa đưc đoạn tr, do tham luyến pháp này, do hoan hỷ pháp này”. Do tham luyến hoan h trng thái pháp này nên lậu hoặc chƣa đoạn tr đƣợc. Trong trng thái Sơ Thiền,  Nhị  Thin,  Tam  Thiền,  Tứ  Thiền,  v.v...  đu  có trng thái hỷ lạc, khinh an khiến cho hành giả thích thú quên ăn quên ng quên tất cả. Do tâm còn ham thích nên lậu hoặc diệt không sch mặc dù trng thái khinh an hỷ lạc đó do ly dục đnh sanh. Pháp ly dục đnh pháp hữu vi nên các pháp đó đu thƣng chu s đoạn diệt. Các bạn hãy đọc li đoạn kinh này thì rõ: “Tứ Thin này là pháp hữu vi, do suy tư tác thành. Phàm sự vật pháp hữu vi, do suy tư tác thành, thời sự vật ấy là vô thường chu sự đoạn diệt”.

Cho nên các bạn còn ham thích trng thái ca pháp ấy nên lậu hoặc không th đoạn tr đƣợc. Chính thích thú trng thái ấy lu hoc. Khi gặp bất c mt trng thái nào dù đúng hay sai các bạn cũng nên xả b thì lậu hoặc mới đoạn trtận gốc.








5/ T TÂM

TH M:
T TÂM LÀ PHÁP ĐC NHẤT
TRONG KINH BÁT THÀNH



“Từ tâm này pháp hữu vi, do suy tác thành. Phàm sự vật pháp hữu vi, do suy tác thành, thời sự vật ấy




vô thường chịu sự đoạn diệt.” Vy vng trú đây đoạn trừ đưc các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa đưc đoạn tr, do tham luyến pháp này, do hoan h pháp này, v ấy đoạn trừ đưc năm h phần kiết sử, đưc hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cnh gii y, khỏi phải trở lui đi này. Này Gia ch như vậy pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Gi, Kiến Giả, bậc A La Hán, Chánh Đng Giác tun bố...”.

 CH Ö  GI I:

Nói  đến  Từ,  Bi, Hỷ, Xả là  ni ta nghĩ ngay  Tứ  Vô Lƣng m, cho Tứ ng Tâm mt pháp môn, nhƣng không ngờ Tứ ng Tâm một cái tên chchung cho bốn pháp môn đc nhất ca Đạo Phật, từ pháp môn đó tu tập đi đến cứu cánh mà không cần phải tu tập nhng thiền đnh nào cả. Khi pháp môn đó tu tập thành tu tâm vô lậu có đ Bốn Thiền Tam Minh. Cho nên em trai ông Cấp Đc ch do tu mt pháp độc nhất “Từ Tâmmà chng quả A La Hán.

Khi chúng ta dùng pháp nhƣ tác ý tu tập tâm t, từ tâm đƣc hiện bày thì có mt trng thái thanh tịnh, an lạc, thƣơng yêu hòa mình trong sự sống ca muôn loài hiện ra, do đó mà n triền cái và thất kiết sử bđoạn diệt.

đây các bạn nên lƣu ý bn pháp độc nht này không phải nhƣ bn thiền trên khi nhập phải dùng bảy năng lực Giác Chi. Pháp Tứ ng Tâm ch có dùng pháp nhƣ tác ý đánh thức tình cm yêu thƣơng sâu kín tận trong tâm ca con ni. Nó gồm có:

1- Từ tâm;
2- Bi tâm;
3- Hỷ tâm;
4- Xả tâm.




Tùy theo đặc tƣớng ca các bạn mà chọn lấy mt trong bốn pháp này tu tập.

Các bạn đâu có ngờ rng bốn pháp Tứ ng Tâm này bốn Pháp tuyệt vi trong Phật Giáo, nó giúp các bạn tr thành nhng bậc Thánh một cách d dàng không có khó khăn các bạn ạ!








6/ BI TÂM

TH SÁU:
BI TÂM LÀ PHÁP ĐC NHẤT
TRONG KINH BÁT THÀNH



“Bi tâm này pháp hu vi, do suy tác thành. Phàm sự vật pháp hữu vi, do suy tác thành, thời sự vt ấy vô thường chịu sự đoạn diệt.” Vy vng trú đây đoạn trừ đưc các lậu hoặc. Và nếu các lậu hoặc chưa đưc đoạn tr, do tham luyến pháp này, do hoan h pháp này, v ấy đoạn trừ đưc năm h phần kiết sử, đưc hóa sanh, nhập Niết Bàn tại cnh gii y, khỏi phải trở lui đi này. Này Gia ch như vậy pháp độc nhất, do Thế Tôn, bậc Trí Gi, Kiến Giả, bậc A La Hán, Chánh Đng Giác tun bố...”.

 CH Ö  GI I:

Bi tâm mt pháp tu tập ng thƣơng xót trƣc cnh thƣơng tâm, bất hnh ca chúng sanh. Nếu mt ni tu tập n luyn đƣc ng thƣơng xót tất c chúng sanh, khi lòng thƣơng xót ấy hin tin thì tất c ác pháp nhƣ tham, sân, si, mn, nghi đu tác dụng vào tâm mình. Do đó tâm vô lậu hoàn toàn chng qu A La Hán ngay lin. Ngƣi chng qu A La Hán đu có đầy đ thiền đnh và Tam Minh.

Các bạn đng hiểu lầm khi tu tập Bi Tâm rồi còn phải tu tập bốn Thiền Tam Minh nữa. Hiu nhƣ vậy sai



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!