Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN BIẾT-TẬP 2-5


bọt  nước.  Vậy  câu:  “Sắc  tức  là  không,  không  tức là sắc”. Câu này có hợp không?
Đáp: Không, pháp thân là một trạng thái vô dục của tâm chứ không phải tâm, vì tâm là một uẩn trong ngũ uẩn, khi sắc uẩn hoại diệt thì toàn cả  ngũ  uẩn  đều  hoại  diệt,  ngũ  uẩn  hoại  diệt  thì tâm đâu còn?
Trong  năm uẩn chỉ có sắc uẩn là hữu sắc, còn bốn uẩn kia là vô sắc, cho nên không thể lấy một uẩn vô sắc mà gọi là pháp thân được. Vì lấy tâm uẩn  cho là  pháp  thân  thì thọ  uẩn;  hành  uẩn  và tưởng uẩn cũng cho là pháp thân được sao?
Trong   thân   nhân   quả   (thân   ngũ   uẩn)   của chúng  ta  chỉ  thuần  có  một  vị  khổ,  không  có  vị giải thoát, nếu chúng ta không tu tập đúng chánh pháp thì không bao giờ có vị giải thoát.
Trong  luật nhân quả có vị giải thoát, có thiện và ác, thiện là giải thoát, ác là khổ đau. Cho nên, đem  thân  ngũ  uẩn  ví  như  nước  biển,  cũng  như nước  và  bọt  nước  thì e rằng  không  đúng, vì thân ngũ uẩn là một hợp chất của các duyên chứ không có thật, thì làm sao là nước và bọt nước được.
Vì thế câu kinh: “Sắc  tức là  không, không  tức là sắc” thì không đúng với Phật giáo, cho nên đức Phật  dạy:  “Nếu  còn  có  một  chút  xíu  gì trong thân ngũ uẩn này thường hằng thì đạo Phật không ra đời”. Tại sao vậy?
Tại vì không giải thoát khổ cho loài người.


Vài  lời  thăm  và  chúc  cho cư sĩ  thân  tâm  an lạc, kiên cố tu hành đến ngày viên mãn.

(Trích ĐVXP tập 10 trang 122)



Hỏi: Quyển Đạo Đức Làm Người tập II, với đề mục  Chân  lí sống  của  loài  người  không  phải  là tôn  giáo  và  triết  lí,  Thầy  lý  giải  ba khái  niệm: Tôn giáo,  triết  học, chân lý. Chúng con cũng thu nhận  được  về  cơ bản.  Nhưng  từ  đó  lại  nảy  sanh suy tưởng mới. Vậy Phật giáo có nằm trong phạm trù  tôn  giáo  không?  đức  Phật  không  chỉ  dạy  có bốn chân lý mà còn nhiều bài thuyết pháp khác nữa. Lời Người dạy: Một Đấng Giác Ngộ Toàn Năng được coi là chân lý được không?
Đáp:
1- Phật giáo không nằm trong phạm trù tôn giáo, trên đầu không có Đấng Tối Thượng Toàn Năng, không có thế giới siêu hình.
Khi tu chứng đạo xong, đức Phật đã tuyên bố: “Thiên thượng, thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Câu này  có  nghĩa  là  trên  trời,  dưới  trời,  con người  là duy nhất.
2- Bốn chân lí của đạo Phật chỉ là bốn chân lí của loài người, chứ không phải là bốn chân lí của Phật giáo. Người nào hiểu bốn chân lí này của Phật  giáo  là  hiểu  sai.  Vì  con người  có  khổ,  tập, diệt,  đạo,  chứ  Phật  giáo  đâu  có  khổ,  tập,  diệt, đạo. Có đúng như vậy không các bạn?


Ngoài bốn chân lí Tứ Diệu Đế, các bài pháp  khác  không  phải  là  chân  lí, mà  là  trợ lí cho  bốn  chân  lí này,  nên  kinh thường  dạy các pháp khác là pháp trợ đạo (37 phẩm trợ đạo).
3- Đấng Giác Ngộ Toàn Năng không phải là chân lí, mà con người có thể giác ngộ Chân Lí Toàn  Năng.  Đây  là  lập  trường  cụ  thể,  xác  thực của Phật giáo xin  các bạn hiểu cho, chứ chúng tôi không  có  ý   xuyên  tạc  các  tôn  giáo  khác,  vì  mỗi tôn giáo đều có một nền tảng khác nhau. Do câu hỏi này buộc lòng  chúng tôi xác  định đúng nghĩa của Phật giáo.

(Trích Giáo án Tu Tập - tập 7)




Hỏi: Kính  bạch Thầy! Trên bình diện hữu sắc và  vô  sắc,  về  hữu  sắc,  thực  tế  trong nhân  loại hiện nay không còn con đường   nào khác là phải xây  dựng  cho  mỗi  người  có  một  nền  đạo  đức nhân  bản  và  nhân  quả.  Trên  cơ sở  bốn  đế  (khổ, tập, diệt, đạo), vậy pháp hành là  Tứ Chánh  Cần ly dục, ly ác pháp thật là tuyệt vời!.
Bởi lẽ thế gian  hiện nay, đã hầu hết làm mất đi nền đạo đức nhân bản này. Thế mới có chuyện người người ham mê theo một quả bóng tròn, hay khổ sở tranh giành làm Tổng thống, hoặc làm từ thiện  thì bớt  xén  cả  của  những  người  khuyết  tật, những người hoạn nạn do thiên tai...
Tất  cả  vì  dục  vọng  mà  nhiều  người  đã  làm mất đi bản chất làm người để đi vào thú tính, xét


cho  cùng  ngay  những  con  thú  có  khi  họ  cũng không bằng. Vì bản chất loài thú ăn no, nằm ngủ rồi thì thôi, nhưng  con người hiện nay ăn no vẫn chưa đủ,  mà  còn  phè  phỡn  tìm kiếm  thật  nhiều, để rồi vào tù còn giở trò sám hối.
Thật là đau lòng cho những vị Thánh Minh muốn cứu đời trước thực tại này.
Bốn câu kệ trong kinh Kim Cang. “Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã
Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai”

Liễu  nghĩa  được  bốn  câu  này  thì làm  gì  có kinh   Phổ   Môn,   kinh   Địa  Tạng,   kinh   Di   Đà, chuyện  Bà  Thanh  Đề,  (kinh  Vu Lan  Bồn)  là  một sự lừa  dối phi đạo đức và phi nhân quả,  mà HT đã phải dằn giọng kêu lên. Một tiếng sét cho những ai còn mê muội...
Đáp: Tại sao kinh Kim  Cang nằm trong hệ thống kinh sách phát triển mà lại mâu thuẫn, tự đập phá lại kinh sách phát triển? Bởi vậy, chúng ta mới thấy hệ thống kinh sách phát triển không nhất  quán.  Cuốn  kinh nào  cũng  tự  ca ngợi  nó  là đệ  nhất  hơn các  cuốn  kinh khác,  kinh Kim  Cang ca ngợi  kinh Kim   Cang  là  đệ  nhất,  kinh Pháp Hoa cũng ca ngợi kinh Pháp Hoa là đệ nhất, kinh Lăng   Già,   kinh  Viên   giác,   kinh  Thủ   Lăng Nghiêm cũng vậy. Vì thế câu:
“Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu ngã


Thị nhân hành tà đạo
Bất năng kiến Như Lai”
Bốn  câu  kệ  này  nó  thể  hiện  qua trí tuệ  Bát Nhã Ba La Mật tánh không cho một hành tinh chết  trong  vũ  trụ  này,  chứ  không  phải  áp  dụng cho hành tinh sống của chúng ta. Vì nó là chân lý của  Long  Thọ  sản  xuất,  nó  đang  áp  dụng  trên cung  trăng,  mặt  trời  và   trên  những  hành  tinh chết  khác,  còn  ở  địa  cầu  thì nó  là  chân  lý  ảo tưởng. Vì địa cầu là môi trường sống nên mọi vật ở đây không thể là cục đá, gốc cây được (không có ngã, không có ta, không có cái của ta).
Nếu bảo rằng lấy bốn câu kệ này làm pháp tu quán chiếu thì không đúng, vì bốn câu kệ này không phải là pháp hành, nó chỉ là một lý luận suông của Bát Nhã Đại thừa, mâu thuẫn lại chính bản thân của Đại thừa, tức là mâu thuẫn lại Tịnh Độ tông và Mật tông. Còn nếu lấy câu:
“Nhất thiết hữu vi pháp Như mộng, huyền ảo, bào ảnh Như lộ diệc, như điển
Ưng tác như thị quán”

Nếu dùng câu này tác ý  tu tập để chúng ta trở thành cây, đá trong môi trường chết thì có thể được,  chứ  pháp  môn  này  không  có  mang  tánh chất  ly tham,  đoạn  ác  pháp  để  được  giải  thoát như kinh sách Nguyên Thủy.
Do biết các pháp hữu vi như giấc mộng, như huyễn  ảo,  như  sương mù,  như  điện  chớp,  thì nó trở thành là pháp môn tránh né, pháp môn tránh


né  là  pháp  môn  ức  chế  tâm,  pháp  môn  ức  chế tâm thì không bao giờ ly dục, ly ác pháp được, không ly dục, ly ác pháp thì không bao giờ có giải thoát.



Hỏi:  Kính   bạch  Thầy!  Thâm  ý  của  Bà  La Môn  đối  với  Phật  giáo  như  thế  nào?  Xin  Thầy dạy rõ cho chúng con biết.
Đáp:  Thâm  ý   của  Bà  La  Môn  đối  với  Phật giáo là muốn diệt Phật giáo bằng nhiều thủ đoạn:
1- Chế  Bồ  Tát  giới,  cấm  cư sĩ  và  tu  sĩ  không được  học  và  tu  tập  theo  kinh sách  Nguyên  Thủy (Tiểu Thừa).
2- Dùng lý luận trí tuệ Bát Nhã đập phá chân lý của Phật giáo, “Vô khổ, tập, diệt, đạo”.
3- Luồn lách đưa giáo lý của mình  để vào thay thế giáo lý của Phật giáo.
4-  Đưa đức  Phật  Di  Lặc  ra  để  thay  thế  đức Phật Thích  Ca làm giáo chủ Phật giáo trong thời vị lai.



Hỏi:  Kính  bạch  Thầy!  Bà  La  Môn  nào  trong kinh  Pháp  Cú  mà  đức  Phật  ca ngợi  và  Bà  La Môn  nào  mà  đức  Phật  chê,  bài  bác?  Xin  Thầy dạy cho chúng con được rõ.
Đáp: Bà La Môn được đức Phật khen ngợi là một  Bà  La  Môn  sống  đúng  giới  luật  và  chánh pháp của Phật, còn sống không đúng giới luật và


chánh pháp của Phật thì đức Phật không chấp nhận. Vậy, chúng ta hãy đọc lại những bài kinh Pháp Cú thì sẽ biết rõ ràng hơn:
“Với người thân, miệng, ý Không làm các ác hạnh Ba nghiệp được phòng hộ Ta gọi Bà La Môn”
Thân, miệng,  ý  không làm  các ác hạnh  tức là sống đời sống giới luật nghiêm chỉnh, thường tu tập các pháp ly dục, ly ác pháp, diệt ngã, xả tâm, tức là phòng hộ ba nghiệp.
“Đoạn hết các kiết sử
Không còn gì lo sợ Không đắm trước buộc ràng Ta gọi Bà La Môn”
Đoạn hết các kiết sử tức là dùng ngăn ác, diệt ác  (Tứ  Chánh  cần),  đó  là  Bà  La  Môn  tu  đúng pháp được đức Phật chấp nhận. Không đắm trước buộc ràng tức là hộ trì các căn mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý  không cho dính  mắc sáu trần sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.
“Bỏ điều ưa, điều ghét Thanh lương, không nhiễm ô Hùng dũng thắng mọi cõi
Ta gọi là Bà La Môn”
Thân tâm được trong sạch, không cấu uế như vầng trăng sáng, tịnh lặng giữa đêm trường sâu thẳm, và tất cả những hữu ái đều được đoạn trừ. Nếu  người  nào  giữ  thân  tâm  được  như  vậy  là  tu


tập  Tứ  Niệm  Xứ  được  viên  mãn.  Người  ấy  được đức Phật chấp nhận là một Bà La Môn:
“Như  trăng sạch không uế Sáng trong và tịnh lặng Hữu ái được đoạn tận
Ta gọi Bà La Môn”

Tóm  lại,  người  được  đức  Phật  gọi  là  Bà La  Môn là phải sống  đúng  giới  luật, thường ngăn ác, diệt ác pháp: “Chư ác mạc tác, chúng thiện  phụng  hành”.  Một  Bà  La  Môn  tu  tập  và sống như vậy chính là tu sĩ Phật giáo, một bậc Sa Môn  Phạm  Hạnh,  còn  ngược  lại  là  một  Bà  La Môn của đạo Bà La Môn; hay nói cách khác, một tu sĩ Phật giáo sống phạm giới, bẻ vụn giới, sống chạy  theo  danh  lợi  làm  những  điều  mê  tín, lừa đảo  tín đồ...  đó  là  Bà  La  Môn  của  Đạo  Bà  La Môn,  chớ  không  phải  một  tu  sĩ  Phật  giáo  (một bậc Sa Môn Phạm Hạnh).

(Trích ĐVXP - 6 Trang  222-245)






ĐẠO PHẬT LÀ MỘT TÔN GIÁO TỰ LỰC


Người muốn đi theo con đường tu hành chân chánh  của  đạo  Phật,  thì phải  thấu  rõ  đời  sống của  con người  từ  khi sinh  ra cho đến  khi chết toàn là một cuộc sống khổ, khổ như thật; khổ vì thân tâm của mình  mang đầy ắp phiền não tham, sân, si; khổ vì mọi người sống chung quanh mình tư tưởng không đồng nhau; khổ vì hoàn cảnh trái ngang  lúc  thuận  lúc  nghịch;  khổ  vì  cơm  ăn  áo mặc phải vất vả gian nan. Khi chúng ta thấy đúng,  biết  đúng  khổ  như  vậy,  thì mới  dám chọn  con đường  tu hành  của  đạo  Phật.  Nếu không thấy đời sống khổ như thật, còn thấy nó có hạnh  phúc,  có  an  lạc,  sung sướng  thì đừng  nên chọn con đường tu hành của đạo Phật.
Tại sao vậy?

Tại con đường tu hành của đạo Phật là con đường  đi  ngược  lại  với  cuộc  sống  của  đời  người. Vả  lại,  con đường  tu  hành  theo  đạo  Phật  là  một con đường phải tự lực dùng sức lực của mình,  luôn luôn  phải  trau  dồi  thân  tâm  và  rèn  luyện  tu  tập, cố sức xả bỏ những tâm niệm đầy tham muốn và các ác pháp đang vây quanh. Khi muốn xả bỏ như vậy,  thì chúng  ta  không  những  cần  phải  gan dạ, lầm  lỳ,  kiên  trì, chịu  đựng, kham  nhẫn... mà  còn phải  đầy  đủ  nghị lực  để  mạnh  dạn  dứt  bỏ  những thói  hư, tật  xấu,  chứ  không  phải  vào  điện  Phật


cúng  bái,  cầu  khẩn,  van  xin,   nhờ  tha  lực  chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ, trợ lực cứu khổ cứu nạn, giải  thoát  các  khổ  đau, tai ương, bệnh  tật,  v.v... hay phóng hào quang tiếp độ những vong hồn người chết về cõi Cực Lạc Tây Phương.
Và cũng không phải tu hành bằng cách tụng kinh, niệm Phật, niệm chú, ngồi thiền, luyện bùa, luyện  chú  để  có  thần  thông,  pháp  thuật,  v.v... hoặc để cầu được sinh về Cực Lạc, Niết  Bàn bằng những tha lực, oai lực của chư Phật, chư Bồ tát.
Muốn tu theo đạo Phật để thoát cảnh khổ đau của  kiếp  làm  người,  thì phải  dùng  sức  tự  lực  của chính  mình,   chứ  không  phải  bằng  tha  lực  của người  khác  như  trong  các  kinh sách  phát  triển dạy.
Đọc  kinh sách  Nguyên  Thủy,  chúng  ta  thấy đức  Phật  dạy  tu  hành  bằng  những  pháp  môn  tự lực,  hầu  hết  không  có  một  bài  pháp  nào  dạy  tu tập  cầu  tha  lực.  Chỉ  có  kinh sách  phát  triển  Đại thừa  mới  có  dạy  tu  tha  lực  mà  thôi  (niệm  Phật cầu vãng sanh).
Khi  nghe  giảng   đến   đây,   có   người   lại   hỏi chúng  tôi:  “Vậy,  kinh sách  Nguyên  Thủy  Phật  có dạy  Tứ  Bất  Hoại  Tịnh, không  phải  pháp  môn  Tứ Bất Hoạt Tịnh là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới sao?”.
Kính   thưa  quý  phật  tử!  đức  Phật  dạy  niệm Phật  là  sống  như  Phật,  chứ  không  phải  niệm danh  hiệu  Phật;  niệm  Pháp  là  sống  đúng  như pháp, tu tập đúng như pháp, chứ không phải tụng


kinh;  niệm  Tăng  là  sống  hòa  hợp  như  chúng tăng, không chống trái nhau, chứ không phải trai tăng  cúng  dường, lạy  lễ các vị tăng  để  cầu  phước báu;  niệm  Giới  là  sống  đúng  Phạm  hạnh,  không hề vi phạm giới luật và  không phạm một lỗi nhỏ nhặt  nào,  chứ  không  phải  hằng  tháng  vào  ngày
30 và ngày rằm cùng nhau tụng giới. Nghe dạy niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới thì các nhà học giả kiến giải theo chữ nghĩa mà giải thích ra, niệm là đọc lầm thầm trong ý như câu: “Nam  mô  Phật  Bổn  Sư Thích  Ca  Mâu  Ni”   hay “Nam  Mô Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh hạnh Túc,  Thiện  Thệ,  Thế  Gian  Giải,  Vô  Thượng  Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn  Sư, Phật, Thế Tôn”. Niệm  như vậy  là niệm  theo kiểu  Phật  giáo phát triển, không có nghĩa gì cả, không có sự giải thoát gì cả. Ở  đây, đức Phật dạy niệm tức là sự tư duy Phật, Pháp, Tăng và Giới, để chúng ta thấu triệt Phật, Pháp, Tăng và Giới hàm nghĩa giải thoát  như  thế  nào,  để  chúng  ta  noi  theo  đó  mà thực  hiện  sống  và   tu  tập  đúng  như  Phật,  như Pháp, như chúng Thánh tăng và  như Giới luật đã dạy.
Có hiểu biết và  tu tập như vậy thì mới có giải thoát  thật  sự,  còn  niệm  danh  hiệu  Phật,  tụng kinh, cúng  dường  trai tăng,  đảnh  lễ  chư tăng  và tụng  giới,  dù  có  niệm  Phật,  Pháp,  Tăng  và  Giới như vậy cho đến muôn kiếp, ngàn đời thì cũng chẳng  có  giải  thoát  được  chút  nào.  Người  ta  đã lầm, niệm như vậy là để nhất tâm bất loạn, tức niệm  không  có  vọng  niệm  xen vào,  chỉ  duy nhất


có câu niệm Phật mà thôi, thì sẽ được vãng sanh Tịnh Độ, đó là hiểu theo Tịnh Độ tông (Thất nhựt nhất  tâm bất  loạn  chuyên trì danh  hiệu A Di  Đà Phật chư Thánh chúng hiện tại kỳ tiền...). Còn hiểu  theo  Thiền  tông,  thì nhất  tâm  bất  loạn  tức là chẳng niệm thiện niệm ác, chẳng niệm thiện niệm  ác  là  Thiền  định,  là  Phật  tánh.  Nhưng  tất cả  những sự tu tập như vậy đều sai hết quý vị ạ! Chỗ nhất tâm bất loạn của quý vị sẽ rơi vào thế giới tưởng của tưởng uẩn, nơi đây là nơi mê hồn trận  của  tà  giáo  ngoại  đạo.  Quý  vị  tu  hành  cần nên cảnh giác nơi hang hùm nguy hiểm này. Nếu tu  tập  đến  đây  quý  vị  coi  chừng  rối  loạn  thần kinh mà nguy hiểm tánh mạng, biến quý vị trở thành người điên khùng.
Người mới bước chân vào đạo Phật, ngơ ngác trước đống kinh sách khổng lồ của Phật giáo Đại thừa.  Có  những  loại  kinh sách,  chúng  ta  đọc  vào thấy  toàn  sự  tu  tập  đều  nhờ  tha  lực  để  trợ  lực trên bước đường đi đến giải thoát, như kinh Vô Lượng Quang, kinh Di  Đà, kinh Quy Ngươn, kinh Pháp Hoa...
Tất  cả  kinh này  đã  làm  cho người  tu  sĩ  nhụt chí, mất hết nghị lực, biến Phật giáo thành một tôn giáo tha lực, một tôn giáo mê tín, khiến người đời sau khi tu hành chỉ còn biết cầu cạnh vào kẻ khác. Do những tu hành sai này đạo Phật chẳng còn ai tu chứng.
Họ  lý  luận,  người  mới  tu  phải  tụng  kinh, bái sám,  niệm  Phật,  lạy  hồng  danh  chư Phật,  phải


cầu tha lực, còn người tu lâu năm phải tự lực ngồi thiền quán niệm hơi thở. Người tu hành mà hiểu Phật giáo như vậy tức là chẳng hiểu Phật giáo gì cả.  Hiểu  như  vậy  là  hiểu  theo  Phật  giáo  phát triển.
Người mới tu, như các cư sĩ bước chân vào đạo, đức Phật đã dạy bài học tu tập tự lực đầu tiên là phải dứt bỏ sáu nghề nghiệp ác đang sanh sống hàng ngày, nghĩa là chúng ta muốn theo đạo Phật tu hành thì phải đổi nghề ác làm nghề thiện.
Qua bài  kinh dứt  sáu  nghề  ác,  chúng  ta  thấy rõ sự tự lực của đạo Phật ngay từ lúc ban đầu.
Khi bước chân vào đạo được nghe Phật dạy:

“Thông  hiểu  những  gì  cần  phải  thông  hiểu, dứt bỏ những gì cần phải dứt bỏ, tu tập những gì cần  tu  tập,  trau  dồi  những  gì  cần  trau  dồi”. Những việc làm này không thể cầu tha lực của người khác được.
Đạo Phật  là  một  tôn  giáo  xây  dựng  trên  nền tảng thiện pháp, mọi ác pháp đều phải được loại trừ dứt bỏ, nhờ có loại trừ ác pháp, tăng trưởng thiện pháp, thì cuộc sống mới có sự giải thoát an vui, hạnh phúc cho mình,  cho người.
Loại  trừ  ác  pháp  thì chỉ  có  tự  lực,  không  thể có  tha  lực.  Những  điều  làm  ác  phải  tự  mình  dứt bỏ, chứ không thể cầu cạnh người khác giúp mình được.
Ví  như  mình  đi  ăn  cắp,  ăn  trộm,  nhờ  người khác giúp mình đừng ăn cắp, ăn trộm có được không?  Không  thể  được!  Phải  tự  mình  biết  đó  là


một  việc  làm  ác,  không  thể  cầu  chư Phật  giúp mình  dứt các nghề nghiệp ác đó được, chính  phải tự  mình  tự  lực  dứt  bỏ,  không  hành  nghề  ác  đó nữa.  Nhờ  thế,  chúng  ta  mới  biết  rõ  đạo  Phật  là đạo  tự  lực.  Kinh sách  tha  lực  không  phải  kinh sách đạo Phật.

(Trích trong Đường Về Xứ Phật, tập I)






CÁI HAY CỦA ĐẠI THỪA LÀ CÁI TƯỞNG
CỦA BỒ TÁT LONG  THỌ

(Trích ở trang Web: nguyenthuychonnhu.net
Phần Giáo án Tu Tập, tập 3)

Hỏi: Trong một bài pháp, thầy Thông Huyễn (Chơn  Quang)  nói  Đại  thừa  cũng  còn  có  những cái  hay, cái  hay đó  là  chỗ  đức  Phật  chưa nói  ra, sau này các Tổ triển khai trong kinh sách Đại thừa. Thầy Thông Huyễn lấy câu đức Phật nói: “Những  pháp  ta chứng  như   những  lá  cây trong rừng, còn những pháp  Ta  dạy cho các con biết như  nắm lá trong tay”. Như vậy, phải chăng những gì đức Phật thuyết chỉ có một phần nhỏ mà thôi, và còn rất nhiều pháp mà đức Phật chưa nói ra?


Đáp:  Các  nhà  học  giả  tu  hành  chưa tới  đâu, mà  dám  cả  gan muốn  hơn  Phật,  dám  nói  những gì đức Phật không cần nói. Trình độ tu chứng của các  Tổ  chỉ  loanh  quanh  trong  kiến  giải,  thiền định  thì lọt  vào  thiền  tưởng  thì không  thể  nào hơn Phật được, mà dám nói những điều Phật đã không nói. Như vậy thì các Tổ sẽ nói sai hết phải không?  Tại  vì  mình   chưa  chứng  như  Phật  mà dám nói những điều Phật chứng, trong khi chính Phật  còn  chưa dám  nói  ra.  Những  điều  Phật  nói ra mà chúng ta chưa hiểu hết, chưa tu hết mà nói ra  những  điều  Phật  chưa  nói  thì thầy  e  rằng những  người  đó  là  Ma  Ba  Tuần.  Nói  ra  những điều  vô hạn  đó có lợi  ích gì cho con người.  Trình độ  kiến  thức  của  con người  hữu  hạn,  chưa hiểu được  những  điều  vô  hạn  đó  mà  nói  ra  thì họ  sẽ sống trong tưởng và như vậy là nói láo, nói không thật. Trong kinh Tương Ưng phật dạy: “Ta nói những điều mà chúng sanh chưa hiểu được, như  vậy là Ta  nói láo. Còn chúng sanh  hiểu được  điều  Ta  nói  thì ta không  có  nói  láo”. Như  vậy,  các  nhà  Đại  thừa  triển  khai  những  gì đức Phật chưa nói là sống trong tưởng, là nói láo mà thầy Thông Huyễn lại cho là hay, như vậy rõ ràng  trí tuệ  của  thầy  Thông  Huyễn  chỉ  là  trí tuệ học giả.
Phật  nói  không  có  thế  giới  siêu  hình,  các  Tổ nói có thế giới siêu hình.


Phật  nói  thân  ngũ  uẩn  hoại  diệt  không  còn một  uẩn  nào  cả,  các  Tổ  nói  thân  ngũ  uẩn  hoại diệt nhưng vẫn còn có Phật tánh, thần thức.
Như vậy Phật nói láo hay Tổ nói láo?

Như vậy Phật lừa đảo chúng sanh hay Tổ lừa đảo chúng sanh?
Thầy Thông Huyễn ở trong tưởng giải lừa đảo của  Phật  giáo  phát  triển  mà  cho rằng  hay,  chứ nào có hay gì đâu, chỉ sống trong ảo tưởng không thực  tế.  Nếu  bảo  rằng  hay  thì phải  có  sự  tu chứng,  có  sự  làm  chủ  sanh  tử  luân  hồi  thì mới hay như đức Phật chứ. Tại sao lý luận hay mà không có người nào tu chứng làm chủ sanh, già, bịnh, chết. Chỉ nói láo mà thôi... Sống phá giới, phạm  giới  để  rồi  nói  những  điều  ảo  tưởng,  phi đạo đức như vậy.
Các  Tổ  nói  được  mà  không  làm  được  thì điều này  không  hay  ho gì  đâu!  Nói  ra được  mà  làm được thì đó mới hay.
Các Tổ đưa ra lý Bát  Nhã và  hằng  ngày  tu sĩ đều tụng niệm Bát Nhã: “Hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa thời thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không...” Thử hỏi có ai tụng Bát Nhã Tâm Kinh mà ngũ uẩn đã không chưa?
Vì chưa có  ai tụng  Tâm  Kinh Bát  Nhã  Ba La Mật  mà  ngũ  uẩn  đã  không  thì đó  là  trí tuệ  Bát Nhã tưởng của Ngài Long Thọ. Trí tuệ này chỉ có thể  áp  dụng  cho thế  giới  tưởng,  còn  áp  dụng  vào thế  giới  con người  làm  sao con người  tu  được.  Ai cũng  nói  ngũ  uẩn  giai  không  chứ  không  ai  làm


cho nó giai không được. Hằng ngày chùa nào cũng tụng Tâm Kinh Bát Nhã hết, nhưng chùa càng to, tháp càng lớn, xe honda, xe hơi, tủ lạnh đủ mọi thứ...  Không  thì chẳng  thấy  không,  mà  có  thì có rất  nhiều.  Nếu  nó  không  thì nó  phải  quét  sạch hết, phải không? Lý luận của Tổ phải hay ở thế giới  loài  người.  Chơn  không  diệu  hữu  là  lý  Bát Nhã của Long Thọ. Nhiều người cứ tu tập giữ không,  tu  mãi  nó  trở  thành  không  ngơ như  cây đá.  Do cái  tưởng  không  này  mà  đưa đến  cái  chết rất oan uổng của tổ Sư Tử, bị Vua Kế Tân giết.
Đó là những chỗ các Tổ luận, còn thầy Thông Huyễn (Chơn Quang) cũng bắt chước dựa theo đó mà luận ra, sợ người không tin nên bảo rằng chỗ Phật   chứng   mà   chưa  thuyết   ra.   Thầy   Thông Huyễn  có  ý   muốn  làm  hơn  Phật.  Nhưng  thử  hỏi bây giờ thầy Thông Huyễn sống có đúng đời sống như  Phật  chưa? Nhìn  lại  đời  sống  giới  luật  của mình  không  ra gì. Mười  giới  sa di  chưa trọn  vẹn mà dám nói những gì Phật chưa nói. Chúng ta không sống đồng thời với các Tổ, nên không biết các Ngài giới luật có nghiêm túc không, hay cũng như  thầy  Chơn  Quang  bây  giờ.  Dù  không  sống đồng  thời  với  các  Tổ,  nhưng  xét  qua tưởng  giải của các Ngài là tưởng giải phá giới, như vậy các Ngài đều sống phi Phạm hạnh.
Riêng  Thầy  không  dám  giải  thích những gì Phật chưa  nói, mà chỉ giải thích những gì đức Phật đã dạy, khiến cho nó rõ ràng dễ hiểu, dễ hành. Thầy không dám dạy hơn những


gì mà đức Phật đã dạy cho chúng ta. Đọc trong sách  của  Thầy,  Thầy  không  bao giờ  có  thêm  cái gì mới mẻ cả. Đức Phật nói hóa sanh, lời dạy này cô  đọng  quá  chúng  ta  không  hiểu  hóa  sanh  như thế  nào.  Có  người  nói  hoá  sanh  như  một  con tò vò.  Sự thật  đâu  phải.  Tò vò mẹ  đẻ trứng, rồi  bắt con sâu  để  vào  tổ,  cho con nó  nở  ra  ăn  thịt  con sâu đó để sống  lớn lên  thành con tò vò. Chứ đâu phải  con sâu  hóa  ra con tò  vò.  Các  con không hiểu  và  hiểu  như  vậy  không  đúng  sự  thật,  điều này có thể chứng minh bằng khoa học được. Nên giảng như vậy vô tình dẫn dắt người ta đã không hiểu lại càng không hiểu hơn.
Tóm lại, chỗ Phật tu chứng mà không dạy cho chúng ta tức là chỗ thừa, không ích lợi cho loài người, chỉ là hý luận suông của tưởng, nó không phải là chân lý của con người. Vì thế, trước khi nhập  Niết  Bàn,  đức  Phật  đã  nói:  “Ta  tự  biết trong đại chúng này, dù có một vị Tỳ kheo nhỏ nhất cũng thấy được dấu đạo, không còn đọa vào đường ác”.
Lời  nói  này  đức  Phật  đã  xác  định,  Ngài dạy   giáo   pháp   giải   thoát   vừa   đủ,   không thiếu, không thừa cho loài người. Với giáo pháp  chân  chánh  này  chúng  ta  tu  tập  còn  chưa hết,  sống  còn  phạm  giới,  phá  giới.  Thế  mà  các nhà học giả xưa và  nay tưởng giải ra những pháp cao siêu  trừu  tượng  ảo  tưởng,  khiến  cho người  tu hành đời sau lạc vào tà kiến, tà pháp.



ĐỨC PHẬT DẠY THẾ GIỚI SIÊU HÌNH KHÔNG CÓ


Hỏi:  Kính  bạch  Thầy!  Cũng  có  cái  ý  hướng đó, thầy Chơn Quang nói rằng, khi Thầy viết bộ Đường  Về  Xứ  Phật  là  Thầy  xiển  dương  chánh pháp  của  đức Phật.  Nhưng  nếu  Thầy từ  chối  thế giới  siêu  hình  mà  trong khi  ở  kinh  điển  Nikaya có nói thế giới  siêu  hình,  thì như  vậy Thầy  cũng không đi đúng với đường lối của đức Phật.
Đáp: Trong kinh Trung Bộ, thuộc tạng kinh Nikaya,  bài kinh Pháp Môn Căn Bản đức Phật đã xác  định  33 cõi  Trời  là  cõi  Tưởng  tri chứ  không phải Liễu tri, và  như vậy trọng tạng kinh Nikaya dù cho bài kinh nào đức Phật nói cõi Trời nào đi nữa,  thì chúng  ta  cũng  phải  hiểu  đó  là  cõi  tưởng mà  thôi.  Do  lời  dạy  của  đức  Phật  và   tự  kinh nghiệm  khi nhập  định,  vượt  qua thế  giới  tưởng của Thầy, thì Thầy cũng không tìm thấy thế giới siêu hình  ở đâu cả, nên Thầy xác  định như Phật: “Thế giới siêu hình không có, chỉ là một thế giới tưởng do năng lực của tưởng uẩn tạo thành”. Còn  nếu  nhập  vào  định  tưởng  thì tất  cả thế giới siêu hình  đều ở đó.
Tóm  lại,  việc  làm  của  Thầy  hôm  này  là  việc làm của đức Phật ngày xưa. Vì đức Phật bác thế giới siêu hình  để xây dựng nền đạo đức nhân quả. Thầy  bác  thế  giới  siêu  hình  để  phá  vỡ  những  sự


mê  tín lạc  hậu,  để  làm  sống  lại  nền  đạo  đức  của
Phật giáo không làm khổ mình,  khổ người.

Còn thầy Chơn Quang hiểu như thế nào cũng được, nhưng đừng đem thế giới siêu hình  gây điều mê tín cho loài người, làm mất nền đạo đức nhân bản  -  nhân  quả.  Bằng  thầy  Chơn  Quang  làm ngược  lại,  thì con người  vẫn  phải  chịu  nhiều  khổ đau. Trên hành tinh này đã một lần bị giáo pháp Đại thừa và thiền Đông Độ dìm mất nền đạo đức này, nên hơn 25 thế kỷ qua, loài người chịu thiệt thòi  quá  lớn.  Đến  giờ  này,  đạo  đức  con  người đang xuống dốc trầm trọng, thế mà nỡ tâm nào thầy Chơn Quang muốn làm sống lại thế giới siêu hình,  để  rồi  sự  khổ  đau trên  hành  tinh này  mãi mãi không bao giờ dứt.






ĐẠI THỪA CÓ Ý ĐỒ DIỆT PHẬT GIÁO



Hỏi:   Điều   thứ   hai,   thầy   Chơn  Quang  dẫn chứng  lại  ngài  Ca  Diếp  và  Ngài  Phú  Lâu  Na tranh cãi  nhau  về  những  giới  cần  phải  bỏ.  Điều đó chứng tỏ rằng hai vị A La Hán chưa có thông suốt.  Thầy  Chơn Quang nói  rằng  trong khi  hàng chư Thiên còn đồng ý với nhau được, quí vị A La Hán lại không đồng ý với nhau cho nên các vị đó



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!