Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN BIẾT-TẬP 2-4


Chúng  ta  thấy,  bài  kinh chỉ  là  một  bài  lý luận,   giải   quyết   về   mặt   nhận   thức   giữa   cái “không”   và    cái   “có”.   Sắc   chẳng   khác   không, không  chẳng  khác  sắc,  sắc  tức  là  không,  không tức  là  sắc;  thọ,  tưởng,  hành,  thức  đều  cũng  như vậy.
Mỗi quan hệ này chính là mối quan hệ nhân quả giữa cái “không” và  cái “có”. Cái có được làm ra từ cái không nếu nó đủ nhân duyên. Cái có lại trở về cái không khi nhân duyên tan rã.
Sắc,  thọ,  tưởng,  hành,  thức  (thân  ngũ  ấm)  là con người  cụ  thể  của  chúng  ta.  Từ  lúc  chúng  ta chưa có  mặt  ở  cõi  đời  này,  lúc  còn  là  cái  không, khi tinh  cha  huyết  mẹ  và   nghiệp  lực  từ  kiếp trước,  gặp  đủ  nhân  duyên  để  hội  tụ,  chúng  ta được sinh ra và  có mặt ở đời. Khi chúng ta từ giã cõi  đời,  các  nhân  duyên  tứ  đại  tan  rã,  lúc  đó chúng ta lại trở về với cái không.
Toàn bộ bài kinh chỉ giải thích được mối tương quan  nhân  quả  của  cái  “có”  và  cái  “không”,  mà thiếu  đi  phần  hướng  dẫn  tu  tập.  Cho  nên,  bài kinh không  có  ý   nghĩa  thực  tiễn,  giúp  hành  giả giải thoát ra khỏi những nỗi khổ đau và sinh tử luân hồi. Chính người viết bài kinh này là ngài  Long   Thọ  cũng  cảm  thấy  lúng  túng, cho nên chỉ còn biết kêu gọi: “Tiến lên, tiến lên, hãy cố gắng tiến lên, đến bờ giác ngộ bằng trí tuệ lớn”.
Đó là những lời hô hào suông, hứa hẹn suông. Nếu  chỉ  nương vào  mặt  nhận  thức  hiểu  biết  mối


tương quan giữa cái “không” và cái “có”, cái “có” được sinh ra từ cái “không”, mà cho rằng đó là trí tuệ lớn: “Bồ tát ba đời nương vào trí tuệ Bát Nhã, thời được đắc quả giải thoát”, là một ngộ nhận tai hại và lầm lẫn rất lớn!!!
Vì dù có hiểu biết được mối tương quan nhân quả  của  cái  “có”  và  cái  “không”  thì với  sự  hiểu biết ấy vẫn chỉ nằm trong trí hữu hạn nhờ suy tư, lý luận mà có, vẫn còn nằm trong cái ngăn che (thức ấm).
Bát Nhã Tâm Kinh là kinh sách của phái Đại thừa phát triển viết ra, không phải là của Phật thuyết,  cho nên  nó  không  có  ý   nghĩa  thiết  thực cho người  tu  hành  để  đi  đến  sự  giải  thoát  cứu cánh viên mãn như lời kinh hứa hẹn.
Với những người đã có kinh nghiệm  tu chứng, thì Bát  Nhã  Tâm  Kinh chỉ  là  một  hý  luận  nói chơi  cho vui  tai mà  thôi.  Còn  với  người  chưa có kinh nghiệm tu chứng; không được gặp thầy sáng hoặc  những  thiện  hữu  tri thức  chỉ  trình bày,  thì Bát  Nhã  Tâm  Kinh là  một  lý  cao siêu  khó  thể nhập. Ví như người ốm đói ăn bánh vẽ mà không thể nào ăn được...
Sau khi đức Phật nhập diệt, sau thời kỳ những vị Thánh đệ tử cũng nhập diệt, trong Tăng đoàn lúc ấy không có người chứng đắc để lãnh đạo đồ chúng,   vì  những   quyền   lợi   và   kiến   giải   khác nhau, Tăng đoàn hình  thành hai bộ phái:
1. Thượng tọa bộ

2. Đại chúng bộ


Thượng  tọa  bộ  là  phái  của  những  vị  Tỳ  kheo thủ cựu, trung thành với những thuyết truyền thống và những giáo huấn của đức Phật để lại mà tu tập.
Đại chúng bộ là phái của vị Tỳ kheo trẻ, cho rằng  khi đức  Phật  tại  thế,  thì đức  Phật  là  hiện thân của Pháp bảo, và bản thân Ngài tùy lúc, tùy nơi mà thuyết pháp khác nhau, cho phù hợp với căn  cơ của  chúng  sanh có  nhiều  sự  sai biệt  khác nhau.  Khi đức  Phật  diệt  thì Tăng  chúng  thanh tịnh là hiện thân của Pháp bảo. Tăng chúng nhất trí thành  lập  Pháp  bảo,  để  giáo  hóa  chúng  sinh, kinh sách cũng cần thay đổi cho phù hợp với thời đại để phù hợp với chúng sinh.
Vì thế, những vị Tỳ kheo trẻ này đòi thay đổi một  số  trong  kinh sách  của  phái  Thượng  tọa  bộ, nhưng phái này không nhất trí, nên trong Tăng đoàn có sự chia rẽ. Phái Thượng tọa bộ ôm kinh sách  Phật  để  về  phương  Nam,  hình  thành  phái Nam  tông.  Đại  chúng  bộ  phát  triển  về  phía  bắc, hình  thành phái Bắc tông hay còn gọi là phái Đại thừa  phát  triển.  Phái  này  tự  viết  lấy  kinh sách để truyền bá. Những kinh sách của phái này viết ra trừu tượng siêu  hình,  miễn  cứ có lý, nghe xuôi tai là  được.  Còn  ai tu  hành  ra sao thì không  cần biết. Bát Nhã Tâm Kinh cũng là sản phẩm như vậy.
Chính   vì  kinh sách  viết  ra tùy  tiện,  lại  do những người không có kinh nghiệm tu chứng soạn



thảo, cho nên nó rất nguy hại. Như người mù dẫn dắt người mù, cả lũ theo nhau chết chìm cả đám.
Lý  Bát  Nhã,  nếu  thực  hiểu,  chỉ  là  quan  hệ tương quan nhân quả của cái “không” và  cái “có”, cái “có” và cái “không”.
Nhưng  ở đây, Ngài Long Thọ đưa ra một chân lý mới, đó là chân lý “Chân Không” và để tránh hiểu  lầm  cái  “không”  đối  đãi  với  cái  “có”  nên  gọi là  “chân  không  diệu  hữu”.  Từ  luận  điệu  chân không diệu hữu này, Ngài Long Thọ đã xóa bỏ đi chân lý của đức Phật, đó là chân lý Tứ Diệu Đế. Đức Phật đã dạy chân lý này trong suốt quá trình từ khi Ngài ngộ đạo đến khi Ngài nhập diệt. Nhờ đó mà các đệ tử của Ngài tu hành đắc đạo. Ở  đây, Ngài Long Thọ đã thay thế bằng luận điệu “trong tướng  chân  không  ấy,  không  có  khổ,  tập,  diệt, đạo,  không  có  chứng, không  có đắc,  bởi  chẳng  có gì gọi là đắc cả”.
Chúng  ta  đã  biết,  do  tư  tưởng  tự  do  phóng túng, phái Đại chúng bộ từ bỏ những giáo pháp cơ bản  của  Như  Lai,  ra  đi  để  thành  lập  phái  Đại thừa  phát  triển.  Họ  tự  do suy tưởng,  tự  do viết lấy kinh sách, tự do nghĩ ra pháp hành.
Bằng tưởng luận, họ cho rằng “có” và “không” là  hai  mặt  đối  lập  của  thế  giới  nhị  nguyên.  Hai mặt đối lập này cũng xuất phát từ “chân không” mà thành. Nếu còn bị kẹt trong thế giới nhị nguyên là con người không được giải thoát.


Cho nên, bằng suy luận, các nhà Đại thừa đã xây dựng Pháp môn “bất nhị” tức là không hai, có nghĩa là việc phân biệt các pháp vốn không hai.
Không  có  Phật,  không  có  chúng  sinh,  không có  sinh  tử,  không  có  Niết  bàn,  không  có  mê, không  có  ngộ,  không  có  phá  giới,  không  có  giữ giới. Bởi vì “sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc”.
Quan điểm này chúng ta có thể thấy rất nhiều qua các  kinh sách,  qua các  phương  pháp  tu  tập của các nhà Đại thừa soạn ra. Ngài Long Thọ khi viết Trung Quán Luận là để xoá bỏ những quan niệm “có” và “không”, để xây dựng cái “không quán”, thực chất là để xây dựng cái chân lý “chân không” thay thế chân lý Tứ Diệu Đế của Phật thuyết  ra.  Vì  các  nhà  Đại  thừa  chủ  trương  còn phân biệt cố chấp tức là còn điên đảo vọng tưởng, chưa thể chứng nhập bản thể chân tâm mầu nhiệm.  Họ  cho  rằng  càng  lý  luận,  băn  khoăn, thắc  mắc  thì lại  càng  kẹt  cứng  vào  lý  luận  khái niệm, và vì thế lẽ đạo vẫn mịt mờ, tăm tối, mông lung.
Bồ  đề  Đạt  Ma,  khi đến  Trung   Hoa  để  xây dựng  phái  thiền  Đông  Độ  đã  tuyên  bố:  “Không lập  văn  tự,  truyền  ngoài  giáo  lý,  chỉ  thẳng  vào tâm,  thấy  tính  thành  Phật”.  Ngài  đã  lấy  tính nghe, tính thấy, tính biết làm Phật tính. Chỉ cần người  tu  ngộ  được  tính nghe, tính thấy  của  mình là  giải  thoát  liền.  Vì tính nghe tính thấy  là  vượt ra ngoài đối đãi.


Cũng  đồng  một  tư  tưởng  với  ngài  Long  Thọ, các  nhà  Thiền  tông  cho rằng:  Nếu  còn  nghĩ  tới vấn  đề  làm  sao giải  thoát  thì người  ta  đã  bị  rơi vào thế giới  ngăn  cách  giữa  tội và  phúc, giữa mê và  ngộ, giữa  sinh tử và  Niết bàn, giữa phàm phu và  Thánh  trí.  Bởi  nếu  có  lý  luận  suy diễn,  phải diệt  trừ  cái  này  chứng  đắc  cái  nọ,  là  người  ấy  bị rơi  vào  quan  điểm  lưỡng  nguyên,  là  đã  xa  rời Phật tính.
Có thể nêu ví dụ để minh chứng phương pháp tu  tập  của  truyền  thống  Thiền  tông  qua các  cuộc đối thoại như sau:
Một  vị  sư  đến  tham  vấn  Hòa  thượng  Đông
Sơn:

- Phật là gì?

Hòa thượng đáp

- Ba cân mè.

Hoặc một vị sư đến hỏi Triệu Châu

- Ý Sư tổ từ Tây vực đến là gì? Sư đáp:
Cây Tùng ở trước sân.

Hoặc có người đến hỏi Tuệ Trung  Thượng sĩ:

- Thế nào là Pháp Thân thanh tịnh? Sư đáp:
- Ra vào trong vũng nước đái trâu, chui rúc giữa đống phân ngựa.
Những câu đối đáp như vậy khiến người nghe phải  bạt  vía, kinh hồn.  Bằng  những  công  án  đó,


các  nhà  Thiền  tông  muốn  làm  dứt  bặt  mọi  thứ thắc  mắc,  suy luận  của  người  hỏi,  để  đưa họ  về với cái Phật tính của mình.  Nếu họ nhận được và sống  với  nó  là  được  giải  thoát.  Ta  thấy  từ  tư tưởng  tự  do phóng  túng  trong  nhận  thức,  đã  dẫn các  nhà  Đại  thừa  đến  tự  do  phóng  túng  trong hành  động,  trong  lối  sống.  Với  quan  niệm  các pháp  vốn  không  hai,  chỉ  cần  biết  dừng  lại  quay về với chính  mình,  để chủ động tự tại trong cuộc sống. Có nghĩa là cuộc sống vốn thế nào, hãy tự nhiên  đúng  như  thế  là  được  giải  thoát.  Vì  vậy, một số các nhà Đại thừa đã có những hành vi kỳ dị, khiến mọi người phải ngạc nhiên, chẳng hạn:
Khi  Lâm  Tế  đến  gặp  Tháp  Chủ,  Tháp  Chủ hỏi:
- Lễ Phật trước hay lễ Tổ trước?

- Không lễ Phật cũng chẳng phải lễ Tổ.

- Phật, Tổ có oan nghiệt gì mà không lễ?

- Khi cưỡi đầu cọp, chớ vuốt râu hùm.

Nói xong, Sư cười khẩy, vảy tay áo và ra đi.
Hoặc Tế Điên Hòa thượng uống rượu, ăn thịt chó tì lì, không sợ người đời cười chê.
Hoặc Ngài Tuệ Trung Thượng sĩ xuống nước tắm với mọi người bằng tấm thân trần truồng không sợ xấu hổ, vì có  ý  nghĩ: không phải không giữ lễ, mà chỉ vì tùy nghi.
Những  hành  động  cuồng  phóng  đó,  các  nhà
Đại thừa gọi là những hành động phá chấp.


Ngày  trước,  khi tu  tập  theo  Đại  thừa,  bản thân  tôi phải sững sờ  khâm phục trước tài trí và những  hành  động  phóng  khoáng  của  những  vị này,  cho rằng  các  vị  này  đã  đạt  được  Thánh  trí và chứng ngộ giải thoát, nên tư tưởng và    hành động mới kỳ đặc làm vậy.
Ngày nay, được gặp chánh pháp của Phật, tôi mới thấy những hành động đó vô lối làm sao. Những  người có hiểu biết  về đạo Phật không thể nào  chấp  nhận  được.  Sự  giải  thoát  mà  các  nhà Đại thừa xây dựng chỉ là pháp tưởng. Đó không phải là sự giải thoát thật sự, đưa con người thoát ra khỏi đau khổ và sinh tử luân hồi.
Theo lý duyên sinh duyên khởi của mười hai nhân duyên là thế giới quan của đạo Phật đã xác định: “Vô minh duyên với hành, hành duyên với thức,  thức  duyên  với  danh  sắc,  danh  sắc  duyên với lục nhập, lục nhập duyên với xúc, xúc duyên với thọ, thọ duyên với ái, ái duyên với thủ, thủ duyên với hữu, hữu duyên với duyên sanh, duyên sanh duyên  với  già,  bịnh,  chết,  sầu  bi  khổ  não”. Như  vậy,  12 duyên  này  được  hình  thành  là  toàn bộ  khổ uẩn  được hình  thành, là  thế giới  khổ  đau hiện bày. Nếu vô minh diệt, dẫn đến thức diệt, hành diệt, dẫn đến già, chết, sầu bi khổ não diệt. Như  vậy  toàn  bộ khổ uẩn  này  chấm dứt.  Theo lý duyên  sinh  duyên  khởi  như trên,  thì “cái  này  có thì cái  kia  có,  cái  này  diệt  thì cái  kia  diệt”.  Vì vậy,  nhà  Phật  chủ  trương  diệt  trừ  tham  ái,  vì tham ái là nguồn gốc, là động lực đưa con người đến  khổ  đau và  tái  sinh  luân  hồi.  Đó  là  sự  giải


thoát  thật  sự  mà  đạo  Phật  mang  đến  cho chúng ta  và  phương  pháp  tu tập  của  đạo  Phật  chỉ nhằm  vào  một mục  đích là diệt  trừ  tham ái mà thôi.
Xét lại toàn bộ kinh sách và  các phương pháp tu  tập  của  các  nhà  Đại  thừa  lấy  trí tuệ  Bát  Nhã làm nòng cốt, đến bây giờ chúng ta có thể nhận thấy rằng đó không phải là giáo pháp của đức Phật.  Các  giáo  pháp  của  các  nhà  Đại  thừa  soạn viết  ra  là  để  bóp  méo  đạo  Phật  và  dìm  mất những giáo pháp chân chính của đạo Phật bằng những  giải  pháp  do suy tưởng, khiến  người  tu  dở sống,  dở  chết  vì  đời  chẳng  ra đời,  đạo  chẳng  ra đạo.  Nhưng  người  đời  cứ  ngỡ  rằng  đó  là  lời  của Phật thuyết, cho nên bao đời nay, người tu chứng ngày một hiếm thấy.
Nếu muốn được giải thoát, đạt tới Niết bàn, không  có  con đường  nào  khác  là  chúng  ta  phải quay về nương tựa vào những lời dạy thật sự là những  lời  dạy  nguyên  thủy  của  đức  Phật.  Những lời  dạy  này  nằm  trong  các  bộ  kinh sách  nguyên thủy  như  Trung  bộ  kinh, Trường  bộ  kinh, được dịch từ tiếng Pali sang tiếng  Việt do Hòa  thượng Thích Minh Châu làm dịch giả.
Đạo sư của  tôi  cũng  nương tựa  vào  những  bộ kinh này tu tập mà thành đạo.
Trong  những tập kinh sách đó, nhiều bài kinh hướng  dẫn  hành  giả  qua tu  tập,  phần  đông  được an trú chứng  ngộ  bằng  thượng  trí,  chứng  đắc cứu cánh  viên  mãn,  đạt  tới  Niết  bàn.  Ví  dụ  như  bài


MÃLUNKYÃPUTTA đại kinh (Trung bộ kinh tập
2 bài  số  64) để  dẫn  chứng,  xin  được  tóm  tắt  bài kinh đó như sau:
“Một  thời,  Thế  Tôn  trú  tại  tịnh  xá  của  ông Cấp  Cô  Độc.  Thế  Tôn  hỏi  các  chúng  Tỳ  kheo có thọ  trì năm  hạ  phần  kiết  sử  do Ngài  giảng  dạy hay không. Được hỏi như vậy, Tỳ kheo MÃLUNKYÃPUTTA  nói:  Con có  thọ  trì năm  hạ phần  kiết  sử  do Thế  Tôn  giảng  dạy  (5 hạ  phần kiết  sử  là:  thân  kiến,  nghi  hoặc,  giới  cấm  thủ, tham dục, sân nhuế). Đức Thế Tôn hỏi MÃLUNKYÃPUTTA vì cớ gì, vì ai mà ông thọ trì năm hạ phần kiết sử? Có phải các tu sĩ ngoại đạo cật  vấn  ông  về  ví  dụ  đứa  con nít còn  ngây  thơ, trong trắng thì làm sao biết  được thân kiến, nghi hoặc, giới cấm thủ, tham dục, sân nhuế? Thật  sự các tùy miên này sống tiềm tàng trong nó?”.
Được  nghe nói như  vậy, ông  Anan  thỉnh  Phật thuyết  giảng  năm  hạ  phần  kiết  sử  cho các  Tỳ kheo thọ  trì. Đức  Thế  Tôn  đã  giảng  cho các  Tỳ kheo nguyên nhân dẫn đến năm hạ phần kiết sử và cách thức đoạn từ năm hạ phần kiết sử.
Đức  Thế tôn nói:  “Và này  Ananda,  thế nào  là lộ  trình đưa đến  sự  đoạn  tận  năm  hạ  phần  kiết
sử?

Ở   đây  A  Nan  Đa,  vị  tỳ  kheo do  viễn  ly  các sanh y trước, do đoạn trừ các bất thiện pháp, do làm  cho an tịnh  các thân ác  hành một  cách toàn diện,  ly  dục,  ly  bất  thiện  pháp,  chứng  và  trú thiền  thứ  nhất,  một  trạng  thái  hỷ  lạc  do ly  dục


sinh, có tầm có tứ. Diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm, chứng  và  trú  thiền  thú  ba. Chứng  và  trú  thiền thứ  tư,  vị  này  chánh  quán  mọi  sắc  pháp,  thọ pháp, tưởng pháp, hành pháp, thức pháp là vô thường,  khổ,  như  bệnh,  như  cục  bướu,  như  mũi tên, như điều bất hạnh, như bệnh chướng, như kẻ địch,  như  phá  hoại,  là  không,  là  vô  ngã.  Vị  này giải  thoát  tâm  khỏi  các  pháp  ấy.  Sau  khi  giải thoát  tâm  ra  khỏi  các  pháp  ấy,  vị  ấy  hướng  tâm vào  các  Bất  tử  giới  (trạng  thái  thân  tâm  bất động),  và  nghĩ  rằng  đây  là  tịch  tịnh,  đây  là  vi diệu, tức là sự an chỉ tất cả hành, sự xả ly tất cả ý,  sự  ái  diệt,  vô  tham, đoạn  diệt,  Niết  bàn.  Nếu an trú  vững  chắc  ở  đây,  vị  này  đạt  đến  sự  đoan tận, thời do sự tham pháp, hỷ pháp của mình,  do sự đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sinh  ở  cảnh  giới  đoạn  tận  năm  hạ  phần  kiết  sử. Ở   đây,  vị  ấy  tiếp  tục  đoạn  tận  các  lậu  hoặc  và nhập Niết bàn, không phải trở lui đời này nữa”.
Con đường đi đến sự giải thoát là con đường thực  hiện  tam  vô  lậu  học  Giới,  Định,  Tuệ  mà trong bài kinh đã chỉ ra cho chúng ta rất rõ. Khi chúng  ta  thực  hiện  giữ  giới,  là  để  xa  rời  các nương  tựa  trước  đây  đã  làm  cho chúng  ta  tham đắm và chấp trước (viễn ly các sanh y trước).
Do giữ giới, chúng ta xa rời những ham muốn, xa rời được các pháp ác, chúng ta bắt đầu đã làm chủ tâm mình.


Do giữ giới, chúng ta đã sống một nếp sống có đạo đức hơn.
Do tu tập các loại thiền định của Phật (Tứ Thánh định) chúng ta đang tập làm chủ cái thân của mình  để an tịnh các thân hành một cách toàn diện và liên tục.
Khi đã  nhập  được  vào  Tứ  thiền,  thân  và  tâm trở  thành  bất  động  trước  các  pháp,  vì  lúc  đó  đã an chỉ tất cả  hành, viễn ly tất cả  ý  (lúc đó trạng thái   của   thân   không   còn   thở  ra  thở   vào,   tai không còn nghe thấy âm thanh bên ngoài nữa). Nhập  được  vào  trạng  thái  này,  chúng  ta  không còn  tham  ái  nữa  (còn  tham  ái  là  còn  động  dục, dục   sẽ   tạo   nghiệp   làm   nhân,   làm   duyên   đưa chúng ta đi luân hồi tái sinh, chịu đau khổ).
An trú vững chắc trong Tứ thiền, hành giả hướng tâm tới sự đoạn tận các lậu hoặc, đoạn trừ các  kiết  sử  trói  buộc,  hành  giả  hướng  tâm  đến Tam minh, thực hiện giai đoạn cuối cùng của Tam vô lậu học. Đó là tuệ chứng ngộ Vô thượng trí, chứng đắc cứu cánh viên mãn, thể nhập vào Niết bàn ngay trong cuộc sống.
Giáo  pháp  của  Như  Lai là  để  thực  hành, chứ không phải là lý thuyết suông.
Nếu bằng con đường học vấn như các nhà Đại thừa hiện đang làm (mở những lớp đại học Phật giáo để học các kinh điển). Bằng con đường nhận thức  đó,  các  vị  chẳng  bao giờ  nếm  được  mùi  vị giải  thoát.  Không  những  thế,  các  vị còn  đang và


sẽ hại những người khác, khiến cho biết bao phật tử bị lầm lạc đường tu.
Từ khi có các trường đại học Phật giáo ra đời, thì những  nơi  này  chỉ  đào  tạo  các  ông  Tiến  sĩ. Cho nên, những bậc Thánh tăng A La hán vắng bóng,  không  còn  nữa.  Vì  thế  mà  các  ông  tăng Tiến  sĩ  sống  bừa  bãi,  phạm  giới,  phá  giới,  sống một đời sống phi phạm hạnh.
Con đường  tu  chứng  chân  lý  và  giải  thoát  là con đường Thánh đạo tám ngành của đức Phật đã đề ra gồm  có: Chánh  kiến,  Chánh tư duy, Chánh ngữ,  Chánh  nghiệp,  Chánh  mạng,  Chánh  tinh tấn,   Chánh   niệm,   Chánh   định.   Trên   các   con đường đó, hành giả phải rèn luyện tu tập kiên trì thì sự chứng ngộ chân lý chắc chắn sẽ xảy ra.
Là  một  người  trước  đây  bị  nhiễm  độc  do kinh sách  của  Đại  thừa  đã  làm  tôi  dở  sống,  dở  chết, tụng kinh, niệm Phật, bái sám, ngồi thiền hoài hoài mà cuộc đời vẫn cứ khổ. Nay nhờ có nhân duyên gặp Thầy sáng, con đường tu của tôi đã rõ ràng,   hiểu   đúng   hơn,  hiểu   rộng   thêm   về   đạo Phật. Được Đại sư hướng dẫn, sự tu tập của tôi có được chút kết quả khiêm tốn.
Thấy rõ được cái đúng và lợi ích thiết thực của chánh pháp và cái nguy hại của tà pháp, tôi vô cùng  thương  những  người  còn  bị  kinh sách  phát triển làm ảnh hưởng sai lệch đường tu.
Với những hiểu biết còn nông cạn, tôi viết những suy nghĩ này, mong rằng những ai đó có thiện  duyên  với  tôi,  đồng  cảm  với  tôi  thì những


suy nghĩ này,  nhận  thức  này  cũng  giúp  được  một phần lợi ích bé nhỏ.
Mong  rằng  những  bậc  cao minh  hơn  tôi  chỉ dạy cho tôi những chỗ còn thiếu hiểu  biết, để tôi càng  ngày  được  hoàn  thiện  hơn.  Xin  chân  thành tri ân.

Kinh ghi,
Tu Viện Chơn Như, ngày 12-7-2000
Thích Minh Đạo






BÁT NHÃ TÂM KINH


Hỏi:  Kính   bạch  Thầy!  Kinh  Bát  Nhã  viết: Quán  Tự  Tại  Bồ  tát  hành  sâu  Bát  Nhã  Ba  La Mật, ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền qua hết thảy khổ ách, hoặc đối cảnh vô tâm...
Tất  cả  những  câu  pháp  đó  có  đồng  nhất  với câu pháp hướng tâm như lý tác ý trong ĐVXP HT dạy: “Tâm như cục đất” không?
Đáp: Không, pháp hướng tâm “Tâm như cục đất”  là  một  phương  pháp  tự  kỷ  ám  thị  để  rèn luyện nội tâm của mình, chứ không phải một lời suông  như  trong  Tâm  Kinh Bát  Nhã:  “Quán  Tự Tại  Bồ  tát  hành  thâm  Bát  Nhã  Ba  La  Mật  đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ  ách”.  Câu  kinh này  là  câu  kinh nhật  tụng


hằng ngày trong các chùa. Không có ngày nào mà tu  sĩ  Phật  giáo  không  tụng  niệm  câu  kinh này, thế  mà  những  người  tụng  niệm  câu  kinh này  có bao giờ  hết  khổ  ách  chưa? Từ  các  tổ  xa xưa cho đến các thầy hiện giờ, không ngày nào là không tụng  niệm,  thế  mà  ngũ  uẩn  có  không  đâu,  nó đang hành  hạ  các  tổ  và  các  thầy  đủ  thứ  tai họa. Như  vậy là kinh này chỉ nói chứ không có hành  được,  vì nó  không  có  pháp  hành.  Còn pháp hướng tâm tự kỷ ám thị là một pháp môn thực hành, nó đã mang đến kết quả chúng  ta thấy rõ ràng, khi chúng ta giữ gìn giới luật nghiêm chỉnh.
Vì  thế,  hai  pháp  môn  này  không  có  giống nhau chút nào cả, một pháp môn nói được mà không   hành   được,   nó   là   một   triết   học   tánh không, (hý luận của Long Thọ) còn một pháp nói được làm được, nó là một đạo đức nhân bản của loài người, nó không phải là Triết học, mà là Đạo đức học.  Nó  là  một  môn  học,  đưa ra những  hành động  sống  hằng  ngày  để  con người  áp  dụng  vào đời sống mà không trái với quy luật tự nhiên của bản  chất  con người.  Cho nên,  càng  áp  dụng  vào đời  sống  thì càng  thích  thú  hơn  nhiều,  vì  nó mang lại hạnh phúc và  sự an vui cho cá  nhân và tập thể.
Nói  đến  đạo  đức  là  nói  đến  sự  sống  an lành của  mỗi  con người,  vì  thế  nó  phải  là  một  pháp môn  cụ  thể  thực  tế,  không  lý  luận  quanh  co,


không  tưởng  giải  ra  những  điều  trừu  tượng,  ảo giác không thật.
“Hành  thâm  Bát  Nhã  Ba  La  Mật  Đa  thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không”. Hành thâm như thế   nào?   Chiếu   kiến   như   thế   nào?   Tụng niệm hay  là quán xét?  Tụng niệm thì các chùa đã từng tụng niệm hằng ngày, còn quán chiếu thì người  ta  đã  quán  chiếu  quá  nhiều,  nhưng  ai  là người  đã  vượt  thoát  được  khổ  ách?  Người  ta  đã thực  hiện  nằm  lòng  những  câu  kinh này,  nhưng tìm thấy  sự  giải  thoát  trong  tâm  thì chưa có  ai cả. Tại sao vậy? Tại vì nó là một triết học, một lý luận suông của những nhà học giả, không có kinh nghiệm tu hành.






VÔ KHỔ, TẬP, DIỆT, ĐẠO


Hỏi:  Kính  bạch  Thầy!  Không  có  ngã,  không có ta và không có cái của ta, nếu quán chiếu được như thế thì mới có luận: vô khổ, tập, diệt, đạo.
Đáp: Đúng, là cái hý luận của các nhà học giả Phật giáo phát triển, vì không  có cái  ngã, không có  cái  ta  và  không  có  cái  của  ta,  nên  mới  có  chỗ đập  phá  chân  lý  của  Phật  giáo  là  “vô  khổ,  tập, diệt,  đạo”,  nên  mới  có  chỗ  cấm  tín đồ  Phật  giáo nếu  ai  tu  theo  Thanh   Văn  Nhị  Thừa  thì sẽ  bị khinh cấu tội. Bởi vì con người không có cái ngã,


không có cái ta, không có cái của ta, nên chân lý khổ, tập, diệt, đạo làm sao có được. Không có cái ngã, không  có cái  ta, không  có cái của  ta thì con người  là gốc cây  là cục đá, nên  chân  lý khổ,  tập, diệt,  đạo  của  đạo  Phật  là  chân  lý  của  con người chứ không phải chân lý của cục đá, gốc cây. Khổ, tập, diệt, đạo đế là chân lý của con người có cái ngã,  có  cái  ta,  có  cái  của  ta.  Con người  tu  hành trở thành cục đá, gốc cây mới sản xuất ra trí tuệ Bát Nhã Tâm Kinh, để trong các chùa hằng ngày tụng  niệm  “Vô  khổ,  tập,  diệt,  đạo”,  để  diệt  mất cái  chân  lý  này  đi,  diệt  mất  cái  chân  lý  này  để làm gì? Diệt mất cái chân lý này là là diệt mất Phật giáo.
Cho nên,  sau khi đức  Phật  tịch  thì Phật  giáo ngay  trên  quê  hương  của  Người  đã  bị  quét  ra khỏi.  Cho đến  bây  giờ,  cũng  không  thấy  dấu  vết gì đúng nghĩa của Phật giáo ở trên đất nước này.
Bây  giờ,  nếu  chúng  ta  trở  về  thăm  quê  hương xứ Phật, chỉ thấy những nơi di tích được trùng tu để thu tiền khách tham quan vãng cảnh, chứ đâu có  ý   nghĩa  làm  cho Phật  giáo  sống  lại  với  đất nước  Ấn  Độ  nữa.  Một  cái  gì cao quý  và  đẹp  đẽ nhất của nước Ấn Độ đã bị lòng ganh tỵ nhỏ hẹp của  các  tôn  giáo  ích  kỷ  tại  quê  hương  này  diệt mất rồi, còn đâu nữa. Có còn thì cũng chỉ là hình thức kinh doanh tôn giáo mà thôi.
Đúng  như cư sĩ  đã  nói:  “Không  có  ngã,  không có  ta, không  có  cái  của  ta, nếu  quán  chiếu  như thế  thì mới  có  luận  vô  khổ,  tập,  diệt,  đạo”.  Vậy,


không  cái  ngã,  cái  ta,  cái  của  ta  thì lấy  cái  gì quán chiếu, nếu có cái quán chiếu được thì phải có cái  ngã,  có  ta,  có  cái  của  ta,  ngoài  ra ba cái  này thì không  có  cái  quán  chiếu.  Vì  thế,  cái  quán chiếu  này  là  cái  ảo  giác  trừu  tượng,  không  phải của  con người,  không  phải  của  con người  thì cái này  không  phải  của  Phật  giáo.  Vì  Phật  giáo  lấy con  người  làm  nơi  tu  hành  giải  thoát  cho  con người,  ngoài  con người  ra  thì không  có  cái  gì để tu hành cả, vì con người khổ nên đạo Phật ra đời giải quyết sự đau  khổ cho con người, mà con người thì phải có cái ngã, cái ta, cái của ta. Nhưng khi cái ngã, cái ta, cái của ta đều thiện  thì có  làm  khổ  mình, khổ  người  đâu mà chúng ta lại dẹp bỏ nó?!  Chúng ta chỉ dẹp cái  ngã,  cái  ta,  cái  của  ta  trong  ác  pháp,  vì  cái ngã, cái ta, cái của ta trong các ác pháp là cái thường  làm  khổ  mình,  khổ  người,  nên  đức  Phật dạy:  “Ngăn  ác  diệt  ác  pháp  sanh,  thiện  tăng trưởng thiện pháp” thì chân lý khổ, tập, diệt, đạo mới thật là chân lý của loài người.
Bởi vậy, lý Bát Nhã chỉ áp dụng vào thế giới tưởng của Long Thọ, chứ không thể áp dụng cho loài người được. Vì nó là một ảo giác chân không diệu hữu.



Hỏi: Kính bạch Thầy! Kinh Kim Cương dạy: “Bất  ưng  trụ  sắc  sinh  tâm,  bất  ưng  trụ  thanh, hương, vị, xúc, pháp sinh  tâm. Ưng vô sở trụ nhi


sanh kỳ  tâm”.  Vậy  có  giống  định  Bất  Động  Tâm hay định Vô Tướng, hay phòng hộ: mắt, tai, mũi, miệng, thân và ý không cho dính  mắc sáu trần không?
Vậy thì vô tâm, những liễu liễu thường tri (rõ ràng  thường  biết)  có  giống  các  ý  câu:  “Tâm  như cục đất không?”
Tâm như đất, có sợ rơi vào vô ký không?

Đáp: Kinh Kim  Cang thuộc về hệ thống Bát Nhã,  mà  Bát  Nhã  là  không.  Câu  kinh diễn  tả  vị trí  chân   không   diệu   hữu   của   triết   học   tánh không,  thì không  thể  nào  bất  động.  Bất  Động Tâm định do ly dục, ly ác pháp, hay nói một cách khác  hơn,  Bất  Động  Tâm  định  là  tâm  không phóng  dật,  cho  nên  đức  Phật  dạy:   “Ta   thành Chánh Giác là nhờ tâm không phóng dật”.
Bất  Động  Tâm  Định  là  một  quá  trình tu tập   bằng   một   cuộc   sống   đúng   giới   luật, không  hề  vi   phạm  một  lỗi  nhỏ  nhặt  nào  cả. Trong  khi giữ  gìn  giới  luật,  còn  phải  tu  tập  các pháp  hành  như:  Tứ  Bất  Hoại  Tịnh,  Tứ  Chánh Cần, Tứ Niệm Xứ... để làm cho thanh tịnh giới luật,  nhờ  giới  luật  thanh  tịnh  tâm  mới  ly dục,  ly ác pháp hoàn toàn.
Các  nhà  sư Phật  giáo  phát  triển  chỉ  biết  lý luận  bằng  ngôn  ngữ  hay  tuyệt,  nhưng  cuộc  sống của các Ngài  rất  phàm phu (sống  phá giới,  phạm giới,  bẻ  vụn  giới),  nhưng  lại  khéo  dùng  những danh từ để che mắt tín đồ: “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh


tâm.  Ưng  vô  sở  trụ  nhi  sanh  kỳ  tâm”.  Đây  là những danh từ suông, chứ sự sống của con người không thể thực hiện được như vậy. Cho nên, kinh sách thuộc hệ thống Bát Nhã này từ xưa cho đến nay đã  lưu  hành  hơn  hai  nghìn  năm  mà  có  mấy ai đã tu tập đạt được.
Vô tâm nhưng thường liễu tri, nghĩa của nó cũng giống như chân không diệu hữu, chỉ nói được chứ không sống với cái đó được, là tại vì nó là cái bánh  vẽ.  Còn  câu  tác  ý   “Tâm  như  cục  đất”  là câu pháp hướng huấn luyện tâm, để tâm huân  thành  thói  quen   như   đất,  chứ  không phải  tâm  là  cục  đất.  Vì thế  tâm  làm  sao rơi  vào vô ký được.
Nghe hướng tâm như đất là người ta sợ tâm thành  đất  thật  sự,  đất  là  đất,  tâm  là  tâm,  có nghĩa  là  tâm  không  làm  khổ  mình,   khổ  người nữa,  lức  là  tâm  không  còn  mang bản  chất  hoang dã của loài cầm thú nữa, chứ không phải tâm như cục đất vô tri, vô giác (vô ký) như cư sĩ hiểu.



Hỏi: Kính  bạch  Thầy! Ở  Cẩm  Nang Tu  Phật, Thầy giảng về hành Thập Thiện:
- Thân hữu sắc (thân do duyên hợp giả có).

- Tâm  là  vô  sắc  (không  có  hình).  Vậy  gọi  là pháp thân có được không?
Có giống  như  trong nước biển có muối, không một  mà  cũng  chẳng  phải  hai,  hay trong nước  có



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!