Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

NGƯỜI PHẬT TỬ CẦN BIẾT -TẬP 1-6


Các nhà tà giáo học kinh sách Đại thừa, lợi dụng gia cảnh người khác đang gặp nhân quả khó khăn  để  làm  tiền  bất  chánh.  Tuổi  71 và  40 cất nhà  làm  sao bị  Kim  Lâu,  những  người  thầy  này xem  sách  nào  gạt  người  như  thế?  Dương  Trạch, Bát Trạch, Thông Thư, Ngọc Hạp, Trần Tử, v.v... Tất cả sách xem ngày, giờ tốt, xấu; dựng vợ, gả chồng, cất nhà, xây mồ mả, v.v... Sách nào dạy điều này? Theo kinh sách coi ngày giờ tốt, xấu thì tuổi 40 cất nhà được “tứ tấn tài”, tuổi 71 cất nhà được  “đại  kiết  lợi”,  sao quý  Thầy  này  lại  bảo  là “Kim Lâu”, sách vở nào? Ở  đâu?
Khi nào cất nhà bị Kim  Lâu là nhà cất đủ bốn dài,  còn  hai  dài,  ba dài,  năm  dài  thì không  bị Kim  Lâu.  Vả lại,  cất  nhà  theo kiểu  thời  đại  hiện giờ,  vi  la,  biệt  thự,  phố,  v.v...  thì không  bị  Kim Lâu, vì không đủ bốn dài.
Còn  ông  Thầy  nào  dám  bảo  động  Long mạch, khi mà  nền  móng  đã  có  sẵn  làm  sao mà  động Long  mạch  được.  Phải  chi  nền  móng  chưa  có, động  thổ  làm  nền  móng  thì động  Long  mạch  có lý. Toàn bộ các cháu đều bị những kẻ vô đạo đức đội lốt tu sĩ  lừa đảo “tiền mất tật mang”.
Nhân  quả  ác  đã  đến  thì không  có  Thần, Thánh  nào  cứu  mạng  được,  nhân  quả  ác chưa  đến  mà  còn  chút  phước  thừa  thì uống nước lạnh cũng hết bịnh.  Đông y có câu: “Vận bĩ  hoài  sơn năng  sát  chúng,  Thời  lai bạch  thủy cứu  nhân  gian”.  Cho  nên,  vận  bĩ  tức  là  lúc  có nhân  quả xấu ác, thời lai tức là lúc nhân  quả tốt


thiện.  Vị  Thầy  thuốc  và   bịnh  nhân  đều  có  sự tương quan nhân quả thiện, ác, nên bịnh hết hay chết đều do nhân quả.
Tất  cả  sự  việc  xảy  ra  trong  gia đình  anh  con đều  do tinh thần  các  cháu  quá  yếu  và  chưa được trang  bị  đạo  đức  nhân  quả  đầy  đủ,  lòng  tin đối với  luật  nhân  quả  chưa sâu  và  còn  bị  ảnh  hưởng truyền thống mê tín lâu đời chưa cởi bỏ.
Đại thừa giáo đã truyền thừa giáo pháp của họ vào  đất  nước  Việt  Nam  cuối  thế  kỷ  thứ  hai,  đầu thế  kỷ  thứ  ba, tính ra  có  hơn  hai  ngàn  năm.  Vì thế, dân tộc Việt Nam chịu ảnh hưởng mê tín sâu dày  và  đối  với  thế  giới  siêu  hình  tinh thần  càng lúc càng yếu kém, chỉ còn biết tựa nương vào tha lực của  Thần  Thánh,  nhưng  cuối  cùng, chưa có  ai tránh khỏi nhân quả khổ đau. Cho nên, chúng ta hãy  mạnh  dạn  chỉ  mặt,  vạch tên  để  cho  mọi người  hiểu  biết  rõ,  không  bị  quý  thầy  Đại  thừa lừa đảo lường gạt, nhờ đó đời sống mọi người bớt khổ đau. Lại nghe lời các thầy Đại thừa đem bùa yểm  cha thì còn  nghĩa  lý  gì đạo  đức  làm  người. Rước  thầy  tụng  kinh cầu  siêu  cho cha mà  cha đã bị bùa yểm thì còn siêu cái gì?
Bảy  mươi  mốt  chết  là  cung Khảm,  đó  là  cung tốt  để  lại  cho con cháu  làm  giàu  có,  có  đâu  tam liên  tử,  có  nghĩa  là  ba  người  chết  theo  nữa  (3 nhập mộ). Ba người chết theo nữa là chết nhằm cung  Càn,  còn  nếu  72  chết  thì cung  Cấn,  theo sách  vở  thì chết  theo  một  người  nữa.  Đó  là  xem đúng  sách  vở  của  Đại  thừa.  Còn  các  Thầy  này


không  theo  sách  vở,  bịa  đặt  xảo  ngôn  hại  người, có  lý  đâu  lại  khiến  cho người  ta  bất  nghĩa,  bất hiếu  đem bùa  yểm  cha, lại  còn  bày  trò  cầu  siêu hiếu hạnh.
Nếu  quả  có  ba người  chết  theo  nữa,  thì đâu phải  cha mình  chết  tạo  ra cái  chết  đó,  mà  do số phận nhân quả của những người này đã tạo ngắn số  ở  tiền  kiếp.  Tại  sao  các  cháu  không  thấy chánh kiến, mà lại thấy và  theo tà kiến như vậy, để  làm  một  lỗi  lầm  rất  lớn,  một  tội  bất  hiếu không tha thứ được. Các Thầy Đại thừa dạy người bất  nghĩa,  bất  nhân,  bất  hiếu,  phi  đạo  đức.  Bây giờ  các  cháu  đem bùa  yểm  cha, sau này  con của các cháu  cũng đem bùa  yểm các cháu, hành động của các cháu làm là hành động phi đạo đức, nhân quả này đời đời vay trả biết bao giờ dứt.
Các  cháu  phải  bình  tĩnh  và  sáng  suốt,  đừng nghe theo những thầy tà giáo ngoại đạo Đại thừa làm điều không tốt, về sau phải gánh chịu luật nhân quả.






MỜI ÔNG BÀ ĐÃ CHẾT VỀ ĂN TẾT


Hỏi: Kính  bạch Thầy, hằng năm cứ đến ngày giỗ  và  sắp  đến  ngày  Tết,  người  còn  sống  ra  mồ


mả mời ông bà cha mẹ đã chết hàng 60, 70 năm nay  về  ăn  Tết  với  con cháu,  như  vậy  có  đúng không thưa Thầy?
Đáp:  Câu  hỏi  này  có  hai  cách  trả  lời  để  xác định:


1- Mê tín

2- Chánh tín

Câu hỏi này mê tín như thế nào?

Như  trong  các  kinh Đại  thừa  dạy,  người  chết còn thần thức nên nghiệp dẫn thần thức đi luân hồi. Đó là hiện tượng thế giới siêu hình  của tưởng tri Đại thừa. Nếu còn có thần thức đi luân hồi tái sanh,  thì  đến  ngày  Tết,  ngày  giỗ  ra  mộ  mời những  người  như  ông  bà  cha mẹ  đã  chết  về  ăn Tết  với  con cháu.  Đó  là  mê  tín. Đạo Phật  dạy: “Con người do các duyên hợp lại mà thành”. Như kinh Ngũ Uẩn đã dạy, thân người gồm có 5 duyên là:  sắc,  thọ,  tưởng,  hành,  thức.  Khi một  người chết  thì năm  duyên  này  đều  tan  rã  sạch,  không còn một  chút xíu nào còn lại.  Cái còn lại đi tái sanh   luân  hồi  là  nghiệp.   Nghiệp  là  hành động  thiện,  ác  của  con  người  hằng  ngày huân  tập  mà  thành.  Khi người  ấy  chết  thì cả khối  nghiệp  ấy  đi  tái  sanh  vào  một  kiếp  khác, hoặc  người  hay vật  (tùy  hành  động  thiện  hay ác lúc  người  ấy  còn  sống).  Vậy,  sau khi tắt  hơi  thì con người chẳng còn gì cả, làm sao mà về ăn Tết với  con cháu?  Vì  thế  mời  ông  bà,  cha mẹ  về  ăn Tết với con cháu là mê tín, không đúng chánh tín của đạo Phật.


Đại thừa cho người chết còn có thần thức, nên có cầu siêu, làm tuần thất 7 ngày, 21 ngày, 49 ngày, 100 ngày, giáp năm, ba năm, v.v... Đó là lối mê tín, trong khi đức Phật xác định không có thế giới siêu hình.
Mê  tín dân  gian  cho rằng,  nếu  người  chết  là đàn ông có 3 hồn 7 vía (tam hồn thất phách), đàn bà có 3 hồn 9 vía (tam hồn cửu phách). Khi người chết  chỉ  còn  một  hồn  một  vía  sống  tại  mồ  mả, còn tất cả các hồn vía khác đều xuống dưới Địa Ngục  âm  ty để  thọ  tội,  và  tiếp  tục  đi  tái  sanh luân hồi. Do mê tín này trở thành một tục lệ, đến ngày  giỗ,  ngày  tết,  con cháu  ra  mộ  mời  ông  bà cha mẹ đã quá cố lâu xa về ăn tết với con cháu.
Từ  mê  tín của  Đại  thừa  đến  mê  tín của  dân gian đều đi ngược lại đường lối của đạo Phật.
Mê  tín của  Đại  thừa  là  tạo  ra  nghề  nghiệp tụng niệm cầu siêu để kiếm miếng sống như các nghề  nghiệp  khác.  Nhưng  nghề  tụng  niệm  cầu siêu  là  nghề  lừa  đảo,  lường  gạt  người,  lấy  hình thức  báo  hiếu  để  cho linh hồn  ông  bà  được  siêu thoát về miền cực lạc.
Đại thừa là loại mê tín có sách vở, có bài bản, nên khó ai thấy được, vì thế mà mọi người đều sa lưới  bẫy  của  Đại  thừa.  Nghề  này  đã  trở  thành một nghề cắt họng thiên hạ, tụng một ngọ, thỉnh đi một chuyến, gần hay xa đều có giá cả  hẳn hòi, không có mặc cả được.
Vậy  chánh  tín thì làm  thế  nào?  Hằng  năm nhớ lại ngày cha mẹ mất, hoặc ngày tư, ngày tết,


những  người  thân  trong  gia  đình  vui  chơi,  nhớ đến  công  ơn của  những  người  quá  cố  thì đến  nơi an nghỉ  cuối  cùng  của  những  người  thân  thương ấy,  tức  là  thăm  mồ  mả.  Khi thấy  mồ  mả  của người, thì con cháu tưởng chừng người còn đang ở đâu đây, nên mời người vui chơi Tết, nhất với con cháu. Đó là lòng tưởng nhớ.






CẦU PHÚC, XIN LỘC


Hỏi:  Kính  thưa Thầy,  đầu  năm  đi chùa để lễ bái cầu phúc, cầu lợi, có lợi lạc gì không thưa Thầy?  Nhất  là  ngày  rằm  tháng  giêng  thì chùa nào cũng đông nghẹt, từ sáng sớm  đến  khuya,  vì người ta nghĩ “Đi lễ quanh năm không bằng đi ngày rằm tháng giêng”!
Chúng  con  cúi  xin  Thầy  từ  bi  chỉ  dạy  cho chúng con được rõ.
Đáp:  Đó là  phong tục mê tín từ lâu  trong  các chùa  Đại  thừa, dùng  cầu  phúc, cầu  lợi  để lừa  đảo tín đồ  Phật  giáo,  đem phúc,  lợi  cho những  tu  sĩ ngồi trong  mát ăn bát  vàng, hơn là phúc, lợi  cho tín đồ, đi chùa để nghe pháp, nhớ lời Phật dạy về đạo đức làm người để sống toàn thiện. Nếu một người  nghe  lời  Phật  dạy,  luôn  luôn  sống  toàn thiện,  thì phước  lộc  đầy  đủ,  cần  gì phải  đi  chùa cầu phước, cầu lợi? Nếu đi chùa quanh năm, hoặc


nhân ngày rằm tháng giêng đến lễ Phật, cầu chư Phật ban phúc, ban lộc, mà chẳng làm một điều lành,  luôn  luôn  làm  khổ  mình,  khổ  người,  không hề  tu  tập  nhẫn  nhục,  tùy  thuận,  bằng  lòng,  lúc nào cũng có phiền não, sân hận, bất toại nguyện, v.v... thì có  ích lợi  gì? Có Phật  nào ban cho phúc lộc hay không? Đụng việc gì cũng làm to ra, la lối om sòm, chửi làng, mắng xóm, cuộc sống lúc nào cũng bỏn xẻn, ích kỷ, không hề giúp đỡ người bất hạnh,  thì dù  có  lạy  Phật  đến  sói  đầu  cầu  phước, cầu lộc cũng chẳng có được chút nào. Đó là một việc làm mê tín, mơ hồ, phi đạo đức, không có thánh thần, chư Phật, chư Bồ Tát nào ban phước, ban lộc cho quý vị ấy được, vì những việc ban phước, ban lộc như vậy không đúng đạo đức công bằng và công lý.
Cầu  phúc,  cầu  lợi  bằng  cách  sống  đúng  đạo đức  nhân  quả.  Không  làm  khổ  mình,  khổ  người thì cuộc sống sẽ có phuớc báo đầy đủ. Đó chính  là hành động đối xử với nhau biết nhẫn nhục, tùy thuận và bằng lòng với mọi người.
Cầu phúc, cầu lợi là một việc làm mê tín trừu tượng, ảo mộng, vì chẳng có ai ban phước, ban lộc cho mình,  mà chỉ có chính  mình  làm được những hành động thiện, thân, miệng, ý không làm khổ mình  khổ  người.  Đó  sẽ  là  sự  ban phước,  ban lộc cho mình  cụ thể, thiết thực và rõ ràng.
Đi  chùa  cầu  phước,  cầu  lộc  là  việc  làm  thiếu trí tuệ. Nếu chúng ta làm ác, bỏn xẻn, ích kỷ, thì


thử  hỏi  có  ai  dám  đem phước  lộc  đến  chúng  ta chăng?
Phước, lộc không phải tự dưng mà đến với chúng ta. Nó đến với chúng ta bằng tâm niệm tốt của chúng ta, do chúng ta biết  thương người,  biết giúp đỡ người  trong cảnh bất  hạnh tai ương, biết ban phúc, ban lộc cho người gặp cảnh khó khăn.
Phước, lộc đến với chúng ta là phải đến với sự công bằng và công lý. Nếu ta làm xấu ác, chẳng giúp  người  trong  cảnh  khổ  nạn,  thì khi chúng  ta gặp  khổ nạn  chẳng  bao giờ  có phước,  lộc đến  với chúng ta được. Nếu chúng ta có ban phước, lộc cho người, thì phước, lộc mới đến với chúng ta, chẳng cần cầu khẩn gì cả. Thế nên, đức Phật đứng trong góc  độ  đạo  đức  nhân  quả  mà  dạy  chúng  ta  tu hành. Đầu năm đi chùa, lễ bái, cầu phúc, xin lộc chẳng được phước, lộc, mà còn bị kẻ khác lừa đảo, lường gạt, tiền mất tật mang. Đầu năm đi chùa lễ bái  cầu  phúc,  xin  lộc  để  rồi  trở  thành  những  tín đồ  Phật  giáo  mê  tín dị  đoan,  lạc  hậu,  bị  người cười chê là người phật tử ngu si, mê muội.
Đầu năm đến chùa xin  được đảnh lễ bậc chân tu, giới đức, để học hỏi những đức hạnh của người thì đó  là  phước,  là  lộc.  Người  chân  tu  hướng  dẫn và  chỉ  dạy  cho mình  những  hành  động  sống  để được phúc, lộc, an vui, thanh thản và hạnh phúc. Đầu năm đi chùa cầu phúc, xin  lộc như vậy mới là chân  chánh,  vì  ích  lợi  thiết  thực  cho mình,  cho gia đình, cho xã hội và cho đất nước quê hương.


Tóm  lại,  đi  chùa  lễ  bái  cầu  phúc,  xin  lộc  là hành  động  mê  tín, dị  đoan, thiếu  đạo  đức,  thiếu trí tuệ,  là  si  mê.  Đi  chùa  lễ  bái  bậc  chân  tu  xin dạy đạo đức làm người, không làm khổ mình,  khổ người  là  chân  chánh,  không  mê  tín, lạc  hậu.  Đó là  người  cư sĩ  đệ  tử  Phật  thông  minh  và  trí tuệ, tìm học những điều phúc, lộc chân chánh, cụ thể, thực tế, không mơ hồ, trừu tượng.






XÓC THẺ


Hỏi: Kính  bạch Thầy! Đầu năm, nhất là trong những ngày Tết Nguyên Đán, chùa nào cũng có làm  một  bàn  thờ  phục  vụ  cho những  người  đến sóc  thẻ.  Trong  một  mâm  đầy  những  tờ  giấy  đã được in và giải thích trong thẻ quẻ đó sẵn theo số thứ  tự,  ai  sóc  được  thẻ  số  mấy  thì đến  nhận  tờ giải số đó.
Ai  sóc  được  thẻ  nói  tốt  thì vui  mừng  phấn khởi,  còn  ai  được  thẻ  nói  xấu  thì buồn  phiền  lo âu.  Kính   thưa  Thầy,  như  vậy  trong  tờ  xem  số mệnh  có  lợi  ích gì mà  đầu  năm  người  nào  cũng sóc thẻ, nhất là phụ nữ chúng con. Mong Thầy vì lợi ích giải thích cho chúng con được hiểu.
Đáp: Thường thường, theo các chùa cổ ở miền
Nam  thì có  hai  nơi  sóc  thẻ.  Một  bên  sóc  thẻ  gọi


là  sóc  thẻ  xăm  ông,  và  một  bên  khác  gọi  là  sóc thẻ xăm bà.
Ông  thường  là  những  danh  tướng  người  Hoa như  Quan  Thánh  Đế  Quân,  tức  Quan  Công  hay còn  gọi  là  Quan  Vân  Trường,  (một  danh  tướng thời  Tam  quốc  bên  Tàu),  còn  người  Việt  như  Lê Văn Duyệt, Thủ Khoa Huân, v.v...
Các Bà thường là những người Việt, Hoa, Chiêm  Thành  như  Bà  Đen,  hay  Lê  Sơn  Thánh Mẫu,  Diêu  Trì Kim  Mẫu,  Quan Âm  Bà  Chúa  Xứ, Chúa  Tiên,  Chúa  Ngọc,  Bà  Mẹ  Sanh,  Mẹ  Độ, v.v...
Thường  những  nơi  bàn  thờ  của  các  vị  đó  đều có  ống  sóc  thẻ.  Hằng  năm  đồng  bào  mê  tín đến cúng  bái  gà,  vịt,  heo quay, v.v...  với  số  tiền  rất lớn.
Chùa Phật Quang ở Bến Tre thu lợi rất lớn là nhờ thờ Quan Thánh Đế Quân, chúng tăng ở đó không  có  lo  gì cả,  ăn  ở  không,  chỉ  cần  giữ  mấy ống sóc thẻ là dư sống.
Sóc thẻ là một hình  thức bói toán qua tư tưởng mê  tín, lạc  hậu,  cho rằng  con người  có  số  mệnh. Ai có số giàu là giàu, số nghèo là nghèo; số nghèo thì không làm sao làm giàu nổi. Do tin tưởng vào số  mệnh,  nên  có  một  số  người  tiêu  cực  sanh  ra lười biếng, bê tha, rượu, chè, bài bạc, cho số mình là vậy.
Cũng  từ  thuyết  định  mệnh  đã  khiến  cho một số  người  tiêu  cực  không  làm  việc,  mà  đã  không làm  việc thì nghèo lại càng nghèo hơn. Vì không


làm  việc  nên  có  thì giờ  rảnh  rỗi  nhiều,  rồi  sanh ra bài  bạc,  đĩ  thõa,  đàng  điếm,  trộm  cướp,  khiến cho gia đình  tan  nát,  xã  hội  rối  ren,  mất  trật  tự an ninh. Bởi vậy, thuyết định mệnh ra đời là một tai hại rất lớn cho loài người.
Từ thuyết định mệnh mới sanh ra bói toán, chiêm tinh, dịch số tiên tử, xin  xăm, sóc thẻ, xem ngày tốt, xấu, v.v... tạo biết  bao nhiêu  sự mê tín, dị đoan, khiến cho mọi người tốn hao tiền bạc rất nhiều.
Nếu  sóc  thẻ  tốt  rồi  chúng  ta đi ăn  trộm, ăn  cắp  thì thử  xem  có  bị  ở  tù  hay  không? Một  việc  làm  ác  là  tự  mình  làm  khổ  cho mình chứ thẻ nào nói là tốt?
Luật  nhân  quả  vốn  công  bằng  và  công  lý,  ai làm ác thì phải thọ khổ, ai làm thiện thì phải hưởng phước, không thể ở chỗ tốt, xấu của thẻ mà được. Nếu thẻ bảo xấu mà chúng ta sống không làm khổ mình, khổ người thì làm sao có   xấu   được.   Người   ta   chửi   mình   mà   mình không giận hờn thì có xấu đâu.
Trong  các  chùa  biết  đó  là  mê  tín, nhưng  quý thầy cứ duy trì, vì duy trì có lợi rất lớn. Nếu một ngôi  chùa  duy trì sự  sóc  thẻ,  xin  xăm  thì hằng năm  kiếm  cũng  được  5, 10 triệu  đồng  dễ  dàng. Nhất là những ngôi chùa ở nơi thắng cảnh, hằng năm  phật  tử trảy  hội  3 tháng  mùa  Xuân  thì nhà chùa  kiếm  hằng  tỷ  bạc.  Đó  là  sự  mê  tín rất  tai hại và làm hao tốn tiền của rất nhiều cho đồng bào.



XEM NGÀY, GIỜ TỐT, XẤU


Hỏi: Kính  thưa Thầy, các cư sĩ tại gia khi làm nhà, đào móng xây tường, hoặc làm chuồng heo, chuồng  bò,  làm  cổng  ngõ,  đào  giếng,  v.v...  đều xem ngày  tốt,  xấu.  Khi  cất  nhà  xong thì gia chủ lập   đàn   Đại   Bi,   năm   ngày   đêm   trì  chú   cầu nguyện cho gia chủ được may mắn, phát tài, phát lộc. Thưa  Thầy, xem ngày giờ tốt, xấu như vậy có đúng không? Xin Thầy chỉ dạy.
Trong  kinh  Bát  Dương  dạy:  Ngày  nào  cũng tốt, tháng nào, năm nào, giờ nào cũng tốt, nếu ai nói  ngày  tháng  năm  giờ  tốt,  xấu  là  phản  lại Thiên  thần,  địa  lý.  Tuy  trong kinh  dạy  như  vậy, nhưng  nếu  khi  làm  nhà,  cưới  hỏi,  chết,  bốc  mộ, làm  chuồng  nuôi  gia  súc,  v.v...  tùy  trường  hợp xem ngày  tốt,  xấu  lại  mang  kinh  Bát  Dương  ra tụng. Thưa Thầy, như thế là như thế nào?
Đáp:  Xem  ngày  tốt,  xấu  là  sự  mê  tín của Trung Quốc, nên có những bộ sách mà trong các chùa dùng để xem ngày tháng tốt, xấu như Ngọc Hạp,  Thông  Thư,  Trần  Tử,  Văn  Công,  Thọ  Mai, v.v...  Những  loại  sách  lịch  này  không  phải  của Phật giáo, mà của văn minh Trung Quốc sản xuất ra  dưới  các  triều  đại  phong  kiến.  Từ  âm  dương bát quái, dịch số, đến tứ thời, ngũ hành, thập nhị bát  tú,  v.v...  Do đó,  các  nhà  tri thức  lập  thành theo  vận  khí  âm,  dương  để  xem  ngày  tốt,  xấu, đoán vận mạng cho loài người.


Đối  với  đạo  Phật  thì kinh sách  này  không đúng với tinh thần của Phật giáo. Đôi mắt của Phật giáo nhìn  các pháp thế gian đều là do duyên hợp tạo thành, diễn biến theo luật nhân quả nên không thể nào đoán vận mạng được. Vì đạo Phật cho rằng  vận  mạng  của  con người  di  động  theo diễn biến hành động thiện, ác của con người, nên làm sao biết chắc được rằng đúng.
Ví  dụ:  có  người  muốn  cất  nhà,  đến  xem  tuổi năm nay có cất nhà được không. Ông Thầy xem tuổi bảo năm nay tuổi tốt, cất nhà khỏi Kim  Lâu, Địa Sát, Thọ Tử, được tứ Tấn Tài, Đại Kiết, kế đó xem  tháng  tốt,  ngày  tốt.  Đến  ngày  giờ  làm  lễ khởi  công.  Cất  xong nhà,  thỉnh  quý  sư Thầy  đến tụng  kinh cầu  an. Nhưng  người  gia chủ  này  làm nghề buôn bán đồ lậu thuế, nhà nước phát giác ra bắt bỏ tù và niêm phong nhà cửa, tài sản.
Như vậy, cất nhà coi tuổi tốt, ngày, tháng tốt, được  tấn  tài,  tấn  lộc,  đại  kiết,  mà  sao lại  không tấn  tài,  tấn  lộc,  đại  kiết,  mà  phải  đi  ở  tù  và  của cải bị tịch thu? Xét như vậy xem ngày tốt, xấu có đúng không? Hay do hành động làm điều ác? Nếu người  này  không  buôn  bán  đồ  lậu  thuế  thì làm sao có sự việc ở tù, của cải bị tịch thu. Gieo nhân nào  thì phải  gặt  quả  nấy,  chớ  không  phải  do cất nhà,  tuổi  tác,  ngày  giờ  tốt,  xấu  mà  tốt  được . Tốt xấu  là  do hành  động  thiện  ác  của  mình.  Vì  vậy, trong kinh Bát Dương dạy: “Ngày tháng năm nào cũng tốt, tốt xấu là do hành động thiện, ác của mình”. Kinh Bát Dương là một loại kinh


Đại  thừa  thuộc  Bà  La  Môn  giáo,  đập  phá  sự  mê tín xem ngày  tốt,  xấu  của  văn  minh  Trung  Quốc, nhưng  lại  bày  vẽ  cúng  kiến,  tụng  niệm  theo  sự mê  tín của  tôn  giáo  này.  Cất  nhà,  cưới  hỏi,  chết, bốc  mộ,  làm  chuồng  nuôi  gia  súc  đều  đem kinh Bát  Dương ra tụng  để  cầu  tài,  cầu  lợi,  thì sự  mê tín lại còn dị đoan, lạc hậu nhất.
Xem ngày tốt, xấu người ta dựa theo luật âm dương mà  tính toán  ra ngày  tốt,  xấu  đối  với  con người  còn  có  chút  khoa học,  còn  kinh Bát  Dương thì không  có  khoa học  chút  nào,  chỉ  dựa  vào  chư Phật  cứu  độ,  gia hộ  tai qua nạn  khỏi  thì thật  là lạc  hậu. Nếu  giết  người,  cướp  của, đi  buôn  đồ  lậu thuế bị bắt ở tù rồi đem kinh Bát Dương ra tụng, thì dù cho tụng  cả ngàn biến  cũng chẳng  tiêu tai giải  nạn  nổi.  Đó  là  sự  lừa  đảo  của  các  loại  kinh Đại  thừa  với  những  người  chưa có  trình độ  kiến thức sâu rộng mới tin và nghe theo.
Từ  các  mê  tín xem ngày  tốt,  xấu  đến  cái  mê tín cúng bái của kinh sách Đại thừa, tất cả đều là lừa  đảo  người  để  làm  tiền  một  cách  trắng  trợn mà không ai bắt tội được. Quý phật tử cần nên sáng  suốt,  đừng  để  bị  lừa  gạt  bởi  những  kẻ  vô lương  tâm  làm  nghề  bất  chính.  Phải  mạnh  dạn thực hiện đạo đức nhân quả không làm khổ mình, khổ  người,  tức  là  sống  thiện,  làm  thiện,  ăn  ở thiện,  thì mọi  phước  báo  và  sự  an vui sẽ  đến  với quý vị.






LÊN ĐỒNG, NHẬP CỐT


Hỏi:  Kính  thưa Thầy,  có  một  vị  Tỳ  kheo đã thọ  giới  cụ  túc,  vị  này  là  đại  diện  Phật  giáo,  là bậc  Thầy  của  tín đồ.  Thế  mà  ra  làm  lễ  trình đồng (tức là lên đồng nhập cốt), và bà vợ của ông ta là quan Thầy sai đồng. Thưa  Thầy, như vậy có đúng không?
Đáp:  Một  vị  Tỳ  kheo  đã  thọ  cụ  túc  giới  mà làm  rất  nhiều  điều  sai trái.  Thọ  giới  Tỳ  kheo là đại diện cho Phật giáo mà có bà vợ tại gia là một điều sai rất lớn. đạo Phật dạy: “Cắt ái ly gia”, thế mà đi tu, thọ cụ túc giới mà còn có vợ con là điều không thể chấp nhận được.
Ở  miền Nam, tại tỉnh Thầy ở, có nhiều vị làm đến chức vụ Chánh trị sự Tỉnh hội Phật giáo, đại diện  Phật  giáo  của  huyện  và  trong  hàng  giáo phẩm  tấn  phong  Thượng  tọa,  Hòa  thượng,  có  vợ con hẳn  hòi,  sống  trong  chùa  như  một  gia  đình thế tục. Tín đồ ở đó gọi: bà Thượng tọa, bà Hòa thượng, v.v... Thật là đau lòng cho Phật giáo ngày nay. Những  kẻ vô đạo đức đội lốt  tu sĩ Phật giáo làm  điều  sai  trái,  diệt  sạch  Phật  giáo,  làm  cho Phật  giáo  không  còn  uy tín, không  còn  lòng  tin với ai hết.
Còn   tu   sĩ   hiện   giờ   lên   đồng   nhập   cốt   là thường, họ làm tất cả mọi nghề, nhất là nghề trị bệnh (gọi là Tuệ Tĩnh đường), trị bệnh bằng nhân điện, khí  công, lưu công, dưỡng sinh, gạo lứt muối


mè,  tiết  thực,  tuyệt  thực,  uống  nước  tiểu,  châm cứu, bùa chú, thuốc thang, bói quẻ, xem ngày tốt, xấu, xem thiên văn, địa lý. Tất cả những nghề nghiệp  này  đều  không  đúng  tính cách  của  người tu sĩ Phật giáo.
Trong kinh Phật dạy, tu sĩ không được hành bất cứ nghề gì, ngoại trừ nghề đi khất thực mà thôi.  Vậy mà tu sĩ bây giờ làm đủ mọi nghề, nhất là những nghề mê tín lại càng không chấp nhận được. Đây, các con đọc một  đoạn kinh Phạm Võng để rõ thấu một vị Tỳ kheo đệ tử Phật phải  sống  và   làm  như  thế  nào  cho  đúng,  còn những  vị  Tỳ  kheo làm  không  đúng  tức  là  những kẻ ma vương, quỷ quái đội lốt đệ tử Phật, để diệt Phật  giáo  và  lường  gạt  tín đồ.  Các  con đọc  bài kinh này để thấu rõ và cảnh giác những kẻ tà sư, ngoại đạo đang đầy rẫy trong Phật giáo:
“Sa môn Gotama (tức là đức Phật) dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban  đêm, từ bỏ không  ăn ban  đêm,  từ  bỏ không  ăn phi thời (ăn uống lặt vặt).
Sa môn  Gotama từ  bỏ  không  đi xem múa hát nhạc, diễn kịch.
Sa môn   Gotama từ   bỏ   không   trang  sức bằng vòng hoa hương liệu, dầu thoa và các thời trang.
Sa môn Gotama từ bỏ không dùng giường cao rộng lớn (tủ, bàn, ghế sang đẹp).


Sa môn Gotama từ bỏ không nhận vàng bạc   của   báu   (tiền,   bạc,   vàng,   ngọc   ngà, những vật quý báu và vô giá).
Sa môn Gotama từ bỏ không nhận hạt giống (không trồng trọt, vườn tược, ruộng rẫy).
Sa môn Gotama từ bỏ không nhận thịt sống hoặc thịt chín (thực phẩm động vật).
Sa môn Gotama từ bỏ không nhận đàn bà con gái  (không  nhận  giới  phụ  nữ  trong khu vực tu hành).
Sa môn Gotama từ bỏ không nhận nô tỳ gái   và   trai  (không   nhận   người   công   quả nam  hoặc nữ).
Sa môn Gotama từ bỏ không nhận cừu và dê (chăn nuôi dê cừu lấy sữa và da).
Sa  môn  Gotama  từ  bỏ  không  nhận  gia cầm và heo (không nuôi gia súc).
Sa  môn    Gotama từ  bỏ  không  nhận  voi, bò,   ngựa   và   ngựa   cái   (phương  tiện   giao thông đi lại ngày xưa).
Sa môn  Gotama từ  bỏ  không  nhận  ruộng vườn, đất đai (bất động sản).
Sa  môn  Gotama từ  bỏ  không  nhận  người làm  môi  giới,  hoặc  tự  mình làm  môi  giới (giao dịch móc nối).
Sa môn Gotama từ bỏ không nhận buôn bán (nghề thương mại).


Sa  môn  Gotama  từ  bỏ  các  sự  gian  lận bằng cân, tiền bạc, đo lường.
Sa  môn  Gotama từ  bỏ  hối  lộ,  gian lận, gian trá, lừa đảo.
Sa môn Gotama từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.
Sa môn Gotama từ bỏ không cất chứa các vật  món  ăn,  đồ  uống,  vải,  xe  cộ,  đồ  nằm, hương  liệu, mỹ vị.
Sa  môn  Gotama từ  bỏ  các  loại  du  hý  thế gian như  múa  hát,  nhạc  kịch,  ngâm  vịnh, nhịp tay, tụng chú. Đánh trống, diễn các tuồng thần tiên, múa võ, đấu voi, đua  ngựa, đấu  trâu,  đấu  bò  đực,  đấu  dê,  đấu  cừu,  đá gà, đá chim cút, đấu gậy, đấu quyền, đô vật, đánh  giặc  giả,  dàn  trận,  thao  dượt,  diễu binh.
Sa môn Gotama từ bỏ đánh bài, các loại giải  trí như   cờ   tám  hình  vuông,  cờ   mười hình vuông, cờ trên không, trò chơi trên đất, chỉ bước vào những ô có quyền tước, trò chơi quăng thẻ rồi chụp nhưng  không sụp đống thẻ,  chơi  xúc  xắc,  chơi  khăng,  lấy  tay làm viết,  chơi  banh,  chơi  thổi  kèn  bằng  lá  cây, chơi xem con, chơi đoán chữ viết trên không, trên   lưng,   chơi   đoán   tư  tưởng,   chơi   bắt chước điệu bộ làm hề.


Sa môn Gotama từ bỏ không nói những câu chuyện vô ích tầm thường.
Sa môn Gotama từ bỏ những cuộc biện luận tranh chấp.
Sa môn Gotama từ bỏ không lừa đảo và xiểm nịnh.
Sa  môn  Gotama từ  bỏ  tránh  xem  những tà   hạnh   như   xem  tướng   tay  chân,   chiêm tướng, hiện tướng, mộng tướng thân tướng, dấu chuột cắn, tế lửa, dùng miệng phun  hột cải vào lửa, tế vỏ lúa, tấm gạo, thục tô, dầm, tế  máu,  khoa  xem  tướng  chi  tiết,  khoa  xem địa lý, khoa xem mộng, khoa cầu tài ban phước,  khoa   cầm  ma  quỷ,  khoa   dùng  bùa chú, khoa bắt rắn, bò cạp, thuốc độc, khoa đoán số mạng, khoa  ngừa tên bắn, khoa  biết tiếng thú cầm nói chuyện.
Sa môn Gotama từ bỏ tránh xa các tà nghiệp nuôi sống tà mạng bằng những nghề xem ngày tốt, xấu để rước dâu, quy rể, lựa ngày giờ tốt, xấu để hòa giải, để chia rẽ, đòi nợ, mượn tiền, tiêu tiền; dùng bùa chú để giúp người may mắn, dùng bùa chú khiến người bị rủi ro, dùng bùa chú phá thai, làm cúng liễm, khiến quai hàm không cử động, dùng  bùa  chú  khiến  người  bỏ  tay xuống,  lỗ tai điếc,  hỏi  gương,  hỏi  đồng  cốt,  hỏi  thiên thần, địa thần, hỏi thần...


Sa  môn  Gotama  từ  bỏ  tránh  xa  những nghề  nghiệp  trị  bệnh  tai, mắt,  mũi,  miệng, trị xỏ, làm thầy thuốc mổ xẻ, chữa bệnh con nít, cho uống thuốc bằng các loại rễ cây”.
Với bài kinh Phạm võng trên, thì đức Phật không chấp nhận làm những nghề nghiệp không chân chánh, đúng chánh hạnh của đạo Phật, huống là một vị tu sĩ thọ cụ túc giới mà còn lên đồng  nhập  cốt,  thì còn  nghĩa  lý  gì là  đệ  tử  của Phật  nữa.  Quý  phật  tử  hãy  đề  cao cảnh  giác,  đó là những kẻ tà đạo Bà La Môn, mượn danh đệ tử Phật để làm những điều sai phạm của người tu sĩ Phật giáo.






THỜ PHỤNG, ĐI LỄ, CÚNG CHÙA


Hỏi: Kính  thưa Thầy, có phật tử nói: “Nhà tôi giàu  có  là  do thờ  phụng  đến  nơi  đến  chốn,  đi lễ cúng  chùa  nhiều,  các  con tôi  làm  toàn  chức  to, ông lớn”. Thưa Thầy, như vậy có đúng không?
Đáp: Không phải thờ phụng, đi lễ, cúng chùa nhiều mà nhà giàu có, con cháu làm quan to chức lớn mà chính  là nhân quả. Giàu có là nhờ không tham lam trộm cắp, biết  san sẻ, bố thí cho người



0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!