Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2013

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT DẠY - TẬP 1 -1


TẬP I
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
Sau khi   chứng đạo   dưới  cội Bồ  đề, đức
Phật Thích Ca Mâu Ni triển khai bốn chân   lý của  loài người,  để  trở thành một  môn  học đạo đức nhân   bản  - nhân quả,  giúp cho con người biến cảnh thế gian thành  cảnh Thiên Đàng, Cực Lạc.
Lời nói đầu
“Những Lời Gốc Phật Dạy” là tên bộ sách  nhiều tập, gồm những lời Phật   dạy  ngắn gọn được rút ra   từ những bài kệ và những bài kinh   trong   tạng  kinh Nikaya,  nói  lên  rõ    ý   nghĩa  và  mục  đích giải  thoát của  Đạo  Phật, nhất  là những pháp  hành thực tế, cụ  thể. Từ  cách thức tu tập đến cách  thức sống hằng  ngày  đối  với tất  cả   mọi  hoàn  cảnh, mọi  đối tượng   đều

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I
đem  lại cho  mình, cho   người  một  tâm hồn
thanh  thản, an vui  và vô sự,  lúc nào tâm hồn cũng bất  động  trước các  ác pháp và các cảm thọ, luôn luôn không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả  chúng sanh.

Nhận thấy những lời dạy này rất  quý báu  có giá trị và lợi ích rất lớn cho  những ai có ý   chí quyết tâm tu hành tìm  đường thoát khổ,  những lời dạy  đạo  đức này thiết thực mang   đến hạnh  phúc an  vui  cho mọi người, nên  chúng tôi xin trích ra và chú giải   theo đúng  kinh   nghiệm tu  hành của mình   đã   có kết  quả, để giúp cho những người hữu duyên với Chánh Phật Pháp Nguyên Thủy.

Đứng trước hai ngả đường tu  tập: Nguyên Thuỷ và Đại Thừa, nếu một người  chưa  có   kinh  nghiệm  tu  hành  thì  sẽ

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


ngẩn ngơ   trước hai lộ trình này, sẽ   không
biết chọn con  đường nào và có   thể bị  lừa đảo qua  những danh từ rất  kêu và rất  bài bác  Phật giáo: “Đại  Thừa và Tiểu Thừa”, “Tối  Thượng Thừa  Thiền  và Phàm Phu Thiền”.

Chúng ta còn  là những phàm phu,   tâm tham  muốn còn   nhiều, nghe  những danh  từ Đại Thừa, Tối Thượng Thừa, ai mà không ham. Chúng ta làm sao không chọn lộ trình Đại Thừa, Tối Thượng Thừa mà bỏ Tiểu Thừa, Phàm Phu Thiền, phải không hỡi các  bạn? Theo kinh  nghiệm tu  hành các pháp môn  của Đại Thừa, chúng tôi đã phải trả một  giá quá đắt  mà chẳng được gì,  chỉ toàn là ăn  bánh   vẽ. Cuối cùng, chúng tôi chọn  lấy  con  đường thích   hợp  với  nguyện

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


vọng tha  thiết tìm tu  giải thoát cho  mình.
Đó là con đường Nguyên Thủy, và khi tu tập thì có  kết quả thực tế  ngay  liền, nên  bây giờ chúng tôi xin trao  lại cho  các bạn,  vì chúng tôi hiểu  các bạn cũng là những người muốn thoát ra khỏi cuộc  đời  đầy   khổ đau phiền não này.

Thưa các  bạn! Những lời dạy  ngắn gọn  này là những hành động đạo   đức tuyệt vời của Đạo Phật để hành giả biết sửa đổi những lỗi lầm thiếu đạo  đức của mình   và để luôn luôn khắc phục tâm mình   sống phải có những hành động  đạo   đức nhân  bản  - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người. Đó cũng  là xây dựng lại cuộc sống chung   nhau, đối với những người thân thương trong gia đình   cũng như  ngoài xã hội,  quyết tâm luôn

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


luôn  đem  đến  cho  nhau  những  sự  an   vui,
thanh thản và vô sự.

Chúng tôi trích ra  những lời dạy  này xin   các bạn  hãy đọc  kỹ, đọc  nhiều  lần, vì những lời dạy   cô đọng    này, nếu chỉ đọc   lướt qua  một lần thì chúng tôi e rằng  các bạn   sẽ không hiểu hết   ý nghĩa vì  đây  là hành động đạo   đức của loài người, không phân biệt người có   tôn giáo hay  không tôn giáo.  Và nhất  là các bạn  nên xem   lại phần   chú giải của  chúng  tôi,  vì  phần   chú  giải    có  những kinh nghiệm sống và tu hành cụ thể, thực tế, có kết  quả thật sự theo  những lời dạy  này. Vì thế, chúng tôi mạnh dạn ghi  lại để  giúp các bạn thực hành áp dụng   vào đời sống  của mình sẽ có kết   quả ngay liền mà không hề  sợ lạc lối vào con đường chịu đựng,  ức chế tâm.

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


Tập  sách   này  với  mục  đích   giúp  cho
các bạn   nhận  rõ thiền định  của Phật    giáo Nguyên Thuỷ và thiền định  của Phật giáo Đại Thừa, Tối Thượng Thừa.  Về cách thức tu tập và kết  quả thì những loại thiền này không giống  nhau   chút nào cả. Đó là một  điều hết sức quan   trọng   cho  cuộc đời tu hành của  các  bạn.   Nếu  tu  theo các pháp thiền của  Đại  Thừa thì các bạn  sẽ rơi vào thiền ức chế  tâm, nhập vào các loại định tưởng. Tu như  vậy sẽ uổng phí  một đời tu hành chẳng ích  lợi gì  cho các  bạn   và cho những người  khác,  bởi vì tâm các bạn  vẫn còn tham, sân, si, mạn, nghi.

Khi các  bạn   chấp  nhận  tu  hành  theo thiền định  của Đại  Thừa và thiền Đông Độ,  nếu  có  được    kết   quả cũng   chỉ  là đạt

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


được định  tưởng, tưởng tuệ. Định tưởng là
loại thiền định không ly  dục ly  ác pháp  nên các bạn không đoạn diệt được tâm tham, sân, si. Do đó, các bạn   không đủ đạo   lực làm chủ sanh,   già,  bệnh, chết.  Vì thế, các bạn  nên nghiệm xét  lại các bậc Tôn   Túc Hòa Thượng, Thượng Tọa v.v.. thường bệnh đau đi bác sĩ,  nằm bệnh  viện... Trong định tưởng thường hay  phát triển Tưởng tuệ. Tưởng tuệ là những trí tuệ hay tranh cãi lý luận hơn thua hay làm thơ văn siêu tưởng về Phật  Tánh tuyệt vời. Do chỗ chứng   thiền tưởng này mà các Thầy Đại   Thừa và Thiền Tông  thường hay  xem  giáo lý Nguyên Thủy là Tiểu Thừa, là ngoại đạo, cho rằng loại  thiền Nguyên Thuỷ đó
  
TẬP I
NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO
Sau khi   chứng đạo   dưới  cội Bồ  đề, đức
Phật Thích Ca Mâu Ni triển khai bốn chân   lý của  loài người,  để  trở thành một  môn  học đạo đức nhân   bản  - nhân quả,  giúp cho con người biến cảnh thế gian thành  cảnh Thiên Đàng, Cực Lạc.
Lời nói đầu
“Những Lời Gốc Phật Dạy” là tên bộ sách  nhiều tập, gồm những lời Phật   dạy  ngắn gọn được rút ra   từ những bài kệ và những bài kinh   trong   tạng  kinh Nikaya,  nói  lên  rõ    ý   nghĩa  và  mục  đích giải  thoát của  Đạo  Phật, nhất  là những pháp  hành thực tế, cụ  thể. Từ  cách thức tu tập đến cách  thức sống hằng  ngày  đối  với tất  cả   mọi  hoàn  cảnh, mọi  đối tượng   đều

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I
đem  lại cho  mình, cho   người  một  tâm hồn
thanh  thản, an vui  và vô sự,  lúc nào tâm hồn cũng bất  động  trước các  ác pháp và các cảm thọ, luôn luôn không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả  chúng sanh.

Nhận thấy những lời dạy này rất  quý báu  có giá trị và lợi ích rất lớn cho  những ai có ý   chí quyết tâm tu hành tìm  đường thoát khổ,  những lời dạy  đạo  đức này thiết thực mang   đến hạnh  phúc an  vui  cho mọi người, nên  chúng tôi xin trích ra và chú giải   theo đúng  kinh   nghiệm tu  hành của mình   đã   có kết  quả, để giúp cho những người hữu duyên với Chánh Phật Pháp Nguyên Thủy.

Đứng trước hai ngả đường tu  tập: Nguyên Thuỷ và Đại Thừa, nếu một người  chưa  có   kinh  nghiệm  tu  hành  thì  sẽ

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


ngẩn ngơ   trước hai lộ trình này, sẽ   không
biết chọn con  đường nào và có   thể bị  lừa đảo qua  những danh từ rất  kêu và rất  bài bác  Phật giáo: “Đại  Thừa và Tiểu Thừa”, “Tối  Thượng Thừa  Thiền  và Phàm Phu Thiền”.

Chúng ta còn  là những phàm phu,   tâm tham  muốn còn   nhiều, nghe  những danh  từ Đại Thừa, Tối Thượng Thừa, ai mà không ham. Chúng ta làm sao không chọn lộ trình Đại Thừa, Tối Thượng Thừa mà bỏ Tiểu Thừa, Phàm Phu Thiền, phải không hỡi các  bạn? Theo kinh  nghiệm tu  hành các pháp môn  của Đại Thừa, chúng tôi đã phải trả một  giá quá đắt  mà chẳng được gì,  chỉ toàn là ăn  bánh   vẽ. Cuối cùng, chúng tôi chọn  lấy  con  đường thích   hợp  với  nguyện

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


vọng tha  thiết tìm tu  giải thoát cho  mình.
Đó là con đường Nguyên Thủy, và khi tu tập thì có  kết quả thực tế  ngay  liền, nên  bây giờ chúng tôi xin trao  lại cho  các bạn,  vì chúng tôi hiểu  các bạn cũng là những người muốn thoát ra khỏi cuộc  đời  đầy   khổ đau phiền não này.

Thưa các  bạn! Những lời dạy  ngắn gọn  này là những hành động đạo   đức tuyệt vời của Đạo Phật để hành giả biết sửa đổi những lỗi lầm thiếu đạo  đức của mình   và để luôn luôn khắc phục tâm mình   sống phải có những hành động  đạo   đức nhân  bản  - nhân quả, không làm khổ mình, khổ người. Đó cũng  là xây dựng lại cuộc sống chung   nhau, đối với những người thân thương trong gia đình   cũng như  ngoài xã hội,  quyết tâm luôn

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


luôn  đem  đến  cho  nhau  những  sự  an   vui,
thanh thản và vô sự.

Chúng tôi trích ra  những lời dạy  này xin   các bạn  hãy đọc  kỹ, đọc  nhiều  lần, vì những lời dạy   cô đọng    này, nếu chỉ đọc   lướt qua  một lần thì chúng tôi e rằng  các bạn   sẽ không hiểu hết   ý nghĩa vì  đây  là hành động đạo   đức của loài người, không phân biệt người có   tôn giáo hay  không tôn giáo.  Và nhất  là các bạn  nên xem   lại phần   chú giải của  chúng  tôi,  vì  phần   chú  giải    có  những kinh nghiệm sống và tu hành cụ thể, thực tế, có kết  quả thật sự theo  những lời dạy  này. Vì thế, chúng tôi mạnh dạn ghi  lại để  giúp các bạn thực hành áp dụng   vào đời sống  của mình sẽ có kết   quả ngay liền mà không hề  sợ lạc lối vào con đường chịu đựng,  ức chế tâm.

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


Tập  sách   này  với  mục  đích   giúp  cho
các bạn   nhận  rõ thiền định  của Phật    giáo Nguyên Thuỷ và thiền định  của Phật giáo Đại Thừa, Tối Thượng Thừa.  Về cách thức tu tập và kết  quả thì những loại thiền này không giống  nhau   chút nào cả. Đó là một  điều hết sức quan   trọng   cho  cuộc đời tu hành của  các  bạn.   Nếu  tu  theo các pháp thiền của  Đại  Thừa thì các bạn  sẽ rơi vào thiền ức chế  tâm, nhập vào các loại định tưởng. Tu như  vậy sẽ uổng phí  một đời tu hành chẳng ích  lợi gì  cho các  bạn   và cho những người  khác,  bởi vì tâm các bạn  vẫn còn tham, sân, si, mạn, nghi.

Khi các  bạn   chấp  nhận  tu  hành  theo thiền định  của Đại  Thừa và thiền Đông Độ,  nếu  có  được    kết   quả cũng   chỉ  là đạt

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


được định  tưởng, tưởng tuệ. Định tưởng là
loại thiền định không ly  dục ly  ác pháp  nên các bạn không đoạn diệt được tâm tham, sân, si. Do đó, các bạn   không đủ đạo   lực làm chủ sanh,   già,  bệnh, chết.  Vì thế, các bạn  nên nghiệm xét  lại các bậc Tôn   Túc Hòa Thượng, Thượng Tọa v.v.. thường bệnh đau đi bác sĩ,  nằm bệnh  viện... Trong định tưởng thường hay  phát triển Tưởng tuệ. Tưởng tuệ là những trí tuệ hay tranh cãi lý luận hơn thua hay làm thơ văn siêu tưởng về Phật  Tánh tuyệt vời. Do chỗ chứng   thiền tưởng này mà các Thầy Đại   Thừa và Thiền Tông  thường hay  xem  giáo lý Nguyên Thủy là Tiểu Thừa, là ngoại đạo, cho rằng loại  thiền Nguyên Thuỷ đó

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


dạy  người tu tập ly dục  ly ác pháp   là loại
thiền phàm phu.

Tập   sách này sẽ  giúp cho  các bạn biết cách  thức tu thiền xả tâm với những bài pháp ngắn gọn  của đức Phật,  nhưng rất  rõ ràng  và dễ hiểu,   có như vậy các bạn tu  tập mới không lạc vào thiền ức  chế tâm của kinh sách phát  triển Đại  Thừa và Thiền Tông hoặc của Bà  La Môn Giáo hay   của ngoại
đạo.

Tập   sách này ra đời chỉ   có   ước vọng
làm sáng tỏ lại đường lối tu hành của  Đạo Phật và giúp cho những ai có  nhiệt  tâm tu tập sẽ thấy kết  quả ngay  liền, nếu  không có kết  quả tức là các  bạn   đã  tu   sai   cần phải thưa hỏi lại thiện hữu tri thức.

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Cuối cùng, chúng tôi xin   các bạn  nên
lưu ý  những lời dạy  ngắn gọn  của đức Phật là những lời vàng ngọc,  hãy trân trọng  và tôn kính  thì  con  đường tu  tập của   các  bạn mới đạt  được  chân giải thoát.

Kính ghi,
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Ngày 30-1-2000
TRƯỞNG LÃO


LỜI PHẬT DẠY

“Nếu rõ pháp như  thật Vô hại đối quần sanh Bỏ các hạnh uế ác
Đây gọi là Trưởng lão”

--o0o--

“Ta  gọi người Trưởng lão

Chưa  hẳn  đã xuất gia Tu gốc nghiệp lành này Phân biệt ở  chánh hạnh”
--o0o--

“Nếu có người tuổi nhỏ Các căn không thiếu sót Phân biệt chánh pháp lành
Đây gọi là Trưởng lão”


CHÚ GIẢI:

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


TU       HÀNH            KHÔNG         KHÓ,  KHÓ   LÀ NGƯỜI KHÔNG LY DỤC LY ÁC PHÁP
Đọc bài kệ trên đây chúng ta thấy tu hành theo Phật giáo không khó, khó là tại chúng ta không  chịu ly  tâm tham, tâm sân, tâm si. Nếu chịu khó và quyết tâm lìa tâm tham, sân, si thì ngay  đó   được gọi  là  Trưởng  lão.  Trưởng  lão trong  Đạo  Phật  được xem là  một  bậc  tu  chứng đã giải thoát hoàn toàn như bậc A La Hán. Trưởng lão không phân biệt tu sĩ hay cư sĩ, không  phân  biệt  tuổi  tác  nhỏ  hay  lớn,  dù   là người  tu  sĩ  lớn  tuổi  hay  trẻ  tuổi,  người  cư sĩ cũng vậy, một khi đã  tu chứng thì đều được  gọi là  Trưởng  lão.  Ngược  lại,  dù   một  vị  Tỳ  kheo tám  mươi  tuổi  mà  tu  không  chứng  thì không được gọi là Trưởng lão, chứ không phải tu lâu năm rồi thành sư cụ theo kiểu Đại Thừa.
Đọc  bài  kệ   này,  chúng  ta  thấy  rất  rõ, muốn tu chứng đạo giải thoát của Phật giáo thì phải  thấu  rõ  pháp  môn  của  đức  Phật  dạy  tu như thế nào.
Câu kệ  đầu: “Nếu rõ  pháp như  thật” nhấn mạnh vào ba chữ  “rõ như thật”. Vậy rõ như thật là rõ cái gì? Rõ như thật có hai nghĩa, các bạn cần phải hiểu:

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


1-  Biết rõ như thật pháp của Phật dạy, không bị lầm lạc pháp của ngoại đạo.
2-   Hiểu rõ   nghĩa  lý  thiện  pháp   và   ác pháp đúng như lời đức Phật đã dạy.
Muốn hiểu rõ nghĩa lời Phật dạy trong câu kệ  thứ  hai:  “Vô  hại  đối quần  sanh”  thì cần phải hiểu cái gì vô hại. Đó chính là pháp thiện, pháp  không  làm  khổ  mình,  khổ  người  và  khổ tất cả chúng sanh.
Vậy, mục đích của Đạo Phật dạy chúng ta tu  hành  là  dạy  sống  trong  thiện  pháp  không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Không  làm  khổ  mình,  khổ  người  và  khổ tất cả chúng sanh, tức là “ly dục ly ác pháp”.
Để xác định, một lần nữa đức Phật dạy: “Bỏ  các  hạnh  uế  ác”.  Câu  này  Phật  dạy quá rõ ràng không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ rõ pháp thiện  như  thật  để  ngăn  và  diệt  ác  pháp,  luôn luôn  sống   trong  thiện  pháp  không  làm  khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì ngay đó  là  một  bậc tu chứng  của Đạo Phật. Có đúng như vậy không các bạn? Pháp tu như vậy có khó không? Nếu các bạn đã sống tâm ly dục ly  ác  pháp  thì các  bạn  là  bậc  giải  thoát,  là người  tu  đã   chứng  đạo.  Như  vậy,  ngồi  thiền, niệm  Phật,  tụng  kinh, bái  sám,  v.v..  có  giải

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


thoát không? Có chứng đạo không? Xin các bạn trả lời đi!
Các  bạn  cứ  xem từ  xưa cho đến  ngày  nay Đại Thừa và  Thiền Tông dạy người  ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh, lạy hồng danh chư Phật và  sám  hối  mà  có  ai  ly  dục ly  ác  pháp  không? Có   ai   là   người   xứng   đáng   được gọi   là   bậc Trưởng lão  chưa? Hay thấy một vị tu sĩ ở   chùa lâu năm, làu thông kinh sách, tán tụng hay thì gọi  là  Trưởng  lão.  Trưởng  lão  này  cũng  giống như Sư Cụ ở chùa lâu năm mà thôi.
Câu thứ tư trong bài kệ nhấn mạnh một cách xác quyết: “Đây gọi là Trưởng lão”. Nếu một  người  tu  theo  Đạo  Phật  không  làm  khổ mình,  khổ  người  và  khổ  chúng  sanh  thì đó  là bậc  Trưởng  lão,  tức  là  người  đã  tu  chứng  quả giải thoát. Thật ra, muốn không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, là phải có một quá trình tu tập chứ không phải nói suông mà có được  dễ dàng.
Đọc bốn câu kệ này các bạn thấy pháp của đức Phật đâu có dạy ngồi thiền ức chế tâm cho hết vọng tưởng để kiến   tánh thành Phật; hay niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc Tây Phương; hay niệm chú để có thần thông pháp thuật biến hóa tàng  hình;  hay để có Tha Tâm  Thông biết

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


chuyện  quá  khứ  vị  lai của  mọi người;  hay tụng kinh, sám  hối,  lạy  hồng  danh  chư Phật  để  cho tiêu  tai, giải  nạn,  v.v..  Ở   đây,  đức  Phật  chỉ  có dạy chúng ta sống  ngăn ác, diệt ác pháp,  sanh thiện,  tăng  trưởng  thiện  pháp,  tức  là  không làm  khổ  mình,  khổ  người  và  khổ  tất  cả  chúng sanh  thì chứng  đạo,  chứ  không  phải  cần  thấy tánh mới thành Phật như Thiền Tông đã dạy: “Kiến  tánh  thành  Phật”.  Khi tu  hành  nhận được “tánh thấy, tánh nghe, tánh biết” mà tâm  tham,  sân,  si  vẫn  còn  thì giải  thoát  ở   chỗ nào?  Nên  có  người  mới  hỏi  Thiền  sư tại  sao vậy?  Thiền  sư trả  lời:  “Tại  vì  tạp khí còn”.  Do câu trả lời này mà người ta bảo rằng lưỡi của Thiền sư là lưỡi lừa. Đúng vậy, Thiền Đông Độ và kinh sách Đại Thừa quả thật đã lừa đảo chúng ta.
Bài kệ này trong kinh Nguyên Thủy thuộc hệ A Hàm trong Hán Tạng mà còn giữ gìn được nguyên  gốc  lời dạy  chân  chánh  của  đức  Phật thì quả  thật  chúng  sanh còn  nhiều  duyên  lành với Chánh pháp của Phật. Bài kinh này dạy tu hành  rất  cụ  thể  và  xác  thực  từ  lúc  bắt  đầu  tu cho đến  khi giải  thoát  hoàn  toàn  một  cách  rõ ràng  cụ  thể:  “Pháp  Ta không  có  thời  gian đến  để  mà thấy...”.  Pháp  Phật  tu  tập  không

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


mơ  hồ,  không  trừu  tượng  như  pháp  môn  của kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ.
Như chúng ta đã biết kinh Nguyên Thủy A Hàm thuộc Hán Tạng là  do các Tổ  Bà  La Môn kết tập nên đã bị các Tổ thêm, bớt rất nhiều, khiến cho Tạng kinh này không còn mang tính chất Nguyên Thuỷ rạch ròi của nó. Hòa Thượng Thích Minh Châu khi lập Luận án Tiến sĩ Phật học, Ngài đã đem hai bộ kinh Trung A Hàm thuộc  Hán  Tạng  và  Trung  Bộ  kinh thuộc  Tạng kinh Pali ra so sánh thì thấy có rất nhiều điểm sai khác to lớn khiến cho người sau đọc kinh A Hàm  không  biết  lời dạy  nào  đúng  là  lời  của Phật và lời dạy nào không đúng. Vì thế, trên bước đường tu học của chúng ta ngày nay nếu không có thiện hữu tri thức có kinh nghiệm hướng  dẫn  thì chắc  chắn  sẽ  dễ  dàng  tu  sai  lạc vào pháp môn của ngoại đạo.
Theo bốn câu kệ này, nếu chúng ta nhiệt tâm  tinh  cần  tu  tập  hằng  ngày  sống   trong thiện pháp không làm khổ mình,  khổ người và khổ  tất  cả  chúng  sanh  thì chúng  ta  sẽõ  chứng đạo. Chứng đạo một cách dễ dàng, chứ không phải như mọi người đã nghĩ: Khó quá!!!
Kính  thưa quý  vị! Tu như bài kệ  trên đây dạy thì không khó. Phải không quý vị?

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Tu, chúng ta chỉ cần biết sống cho đúng thiện  pháp,  không  làm  khổ  mình,  khổ  người, khổ  chúng  sanh.  Tu như  vậy  là  hạnh  phúc  là an vui, thanh thản và vô sự cho mình,  cho mọi người  và  cho muôn  loài  chúng  sanh.  Đó  chính là  sự  giải  thoát  chân  thật  của  Đạo  Phật,  chứ đâu  phải  tu  tập  là  phải  chịu  cực  khổ  vào  chùa làm công quả, rồi hằng ngày niệm Phật, tụng kinh, bái sám, cầu nguyện cho tiêu tai, giải tan nghiệp  chướng;  cho bệnh  tật  tiêu  trừ;  cho được vãng sanh về Cực Lạc Tây Phương; hoặc ngồi thiền để kiến   tánh thành Phật; hay lạy hồng danh chư Phật để được gia hộ giải thoát. Luật nhân  quả  không  chấp  nhận  những  điều  này, nên  dù  cho suốt  tháng  ngày  niệm  Phật,  tụng kinh, cầu  nguyện  cũng  không  bao giờ  bệnh  tật tiêu trừ, tai qua nạn khỏi; dù có lạy hồng danh chư  Phật  đến  mòn  đầu  gối  cũng  không  giải thoát.  Giải  thoát  đâu  chẳng  thấy  mà  chỉ  thấy phí  công  vô  ích.  Còn  ngồi  thiền  thì đau chân như ai  bẻ,  tê  chân  như ai  đần,  nóng  chân  như ai  đốt  lửa,  đạo  đâu  chẳng  thấy,  chỉ  thấy  mình ngu si tự làm khổ mình.  Ngồi thiền cố gắng tập trung  tư  tưởng  không  cho niệm  thiện,  niệm  ác xen  vào,  đến  nỗi  đầu  nặng  như  đội  đá,  mặt căng   như   da  trống.   Tuy  khổ   đau  như   vậy, nhưng vẫn tu tập không dám bỏ một phút, một



giây  nào,  cho đến  khi bị  nhức  óc,  đau đầu  như ai  lấy  dây  xiết  quanh đầu,  đau nhức  như bưng, thế  mà  Phật  tánh  có  giúp  cho mình  hết  khổ đau  được không?  Có  hết  tham,  sân,  si,  mạn, nghi không? Rõ ràng bỏ của, bỏ công, phí sức tu tập  mà  không  tìm giải  thoát  được, chỉ  toàn sống trong xúc tưởng hỷ lạc ảo giác, do ngu si không hiểu biết thiền định nên cho đó  là thiền định. Thật là tội nghiệp cho những người mù muốn biết màu sắc. Ôi! Đáng thương xót vậy.
Tóm lại, bốn câu kệ trên cho thấy sự tu hành của Đạo Phật không khó, tu đến đâu là có giải thoát đến đó ngay liền; có khó chăng là chỉ những người không muốn tìm sự giải thoát nên không chịu bỏ những ác pháp, không chịu từ bỏ xa lìa tâm ham muốn dục lạc thế gian.
Thường những người ưa thích ngồi thiền kéo  dài  nhiều  thời  gian  không  vọng  niệm,  để kiến tánh   thành   Phật,   hoặc   ham   mê   thần thông nên tu khổ hạnh, chịu đau khổ, không muốn  rời  sự  đau khổ,  lấy  sự  đau khổ  làm  sự giải  thoát  để   đạt  được  mục  đích  thần  thông. Đối  với  Đạo  Phật,  những  sự  tu  tập  đó   là  đi ngược lại đường lối giải thoát của Phật. Do những sự ham mê như trên đã nói, nên họ thấy tu tập là tu khó.



Đối với những người có quyết tâm vượt thoát  ra khỏi  bản  chất  loài  cầm  thú  của  mình thì Đạo  Phật  tu  hành  không  khó,  tu  hành  rất dễ   dàng;  chỉ  khó  đối  với  những  người  không chịu lìa xa, không muốn từ bỏ bản chất cầm thú của  mình  nên  đành  phải  chịu  khổ  đau muôn đời, muôn kiếp.

NGƯỜI  TU  CHỨNG KHÔNG  PHÂN  BIỆT NGƯỜI XUẤT GIA  HAY  TẠI GIA

Người đời thường có quan niệm cho rằng người xuất gia mới tu chứng Thánh quả A La Hán, mới thành Phật, còn người tại gia thì không bao giờ tu chứng được. Đối với Đạo Phật những quan niệm này sai lầm. Đạo Phật không phân  biệt  người  xuất  gia  hay  tại  gia  mà  chỉ dành cho những người có quyết tâm tìm tu giải thoát,  để  thoát  ra khỏi  biển  khổ  sanh  tử  luân hồi. Nhưng điều quan trọng trong sự tu tập này là  phải  thấu  rõ  giáo  pháp  của  đức   Phật  là “Thiện  pháp”,  là  “Đức  hạnh   cao quý”  của loài người và của Thánh nhân, nên muốn tu tập là phải luôn luôn khắc phục tâm, chế ngự tâm, dẫn  tâm  và  làm  chủ  tâm  mình,  để  biết  sống trọn vẹn trong những hành động  đạo  đức nhân bản  –   nhân  quả  không  làm  khổ  mình,   khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Muốn được vậy



thì người  tu  tập  phải  nhiệt tâm  tinh cần  sống một  đời  sống  đạo  đức toàn  thiện.  Người  sống được một đời sống như vậy là người chứng đạo, chứ  không  phải  chứng  đạo  ở   chiếc  áo  cà  sa và chiếc đầu cạo trọc. Người tu sĩ Phật giáo tu tập giới luật không nghiêm túc, thường phạm giới, phá giới tức là không ly dục ly ác pháp thì được xem là  một  cư sĩ  trọc  đầu.  Cho nên,  đức  Phật đã  xác  định điều  này  qua hai  câu  kệ  dưới  đây rất rõ ràng:
“Ta  gọi người Trưởng lão.

Chưa hẳn đã xuất gia”

Đây là lời  đức Phật  dạy, chắc quý vị  cư sĩ không  còn  nghi  ngờ  gì nữa,  cũng không  e ngại và  cũng  không  mặc  cảm  với  chiếc  áo  cư sĩ  của mình   sẽ  không  tu  chứng.  Hãy  luôn  luôn  tin chắc  rằng  mình   sẽ  tu  chứng  quả  giải  thoát không thua tu sĩ. Bởi tu chứng theo Đạo Phật không  có  gì  khó  khăn,  chỉ  có  biết  sống  đúng đời sống  đạo  đức nhân  bản  - nhân  quả,  không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh như trên  đã  nói,  thì dù  là  người  xuất  gia hay  tại  gia  cũng  đều  chứng  đạo  như  nhau  cả. Nếu không ngăn ác, diệt ác pháp thì người xuất gia cũng như người  tại gia không thể nào sống đúng  đạo  đức nhân  bản  - nhân  quả  này  được.



Không  sống  đúng   đạo   đức  nhân  bản  –  nhân quả  này  thì chẳng  bao giờ  chứng  đạo, dù  có  tu pháp  môn  nào  cũng  chẳng  có  giải  thoát.  Xin quý vị lưu ý lời dạy này.
Một vị tu sĩ của Đạo Phật tu chứng đạo rất dễ nhận xét: Đó là người nào ly dục ly ác pháp, sống đúng giới luật, tức là sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình,  khổ người  và  khổ  chúng  sanh.  Chính  những  người ấy đã chứng đạo, hay nói cách khác là người ấy sống thường tư duy suy xét lại tâm mình  có lỗi thì ngăn chừa, cho nên không hề  vi phạm một lỗi   nhỏ   nhặt   nào.   Người   sống   không   hề   vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào là người chứng đạo. Có phải vậy không quý vị?
Chứng   đạo   đâu   có   nghĩa   là   kiến tánh thành Phật; chứng đạo đâu có nghĩa là phải có thần thông, phép thuật tàng hình,  kêu mây gọi gió,  biết  chuyện  quá  khứ  vị  lai của  mọi người, v.v..; chứng đạo đâu phải ngồi thiền năm bảy ngày, một tháng, hai tháng, một năm, hai năm, v.v.. Chứng đạo chỉ là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ, quý vị ạ!
Từ   xưa  đến  nay  người  ta  cứ  nghĩ  rằng người tu chứng đạo là người phải siêu việt, phải có  đầy  đủ  thần  thông,  phép  thuật,  phải  có  hào



quang,  ánh  sáng  chói  lọi khắp  bầu  trời,  v.v.. chứ người ta đâu nghĩ rằng người tu chứng đạo chỉ  là  người  sống  trọn vẹn đầy đủ đạo  đức làm người  không  làm  khổ  mình,   không  làm  khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh. Đó là  Đạo  Phật,  đạo  giải  thoát  sanh,  già,  bệnh, chết  và  chấm dứt luân hồi. Đây  mới thật  sự là giải thoát, mới thực sự là đạo từ bi, mới thật sự là đạo trí tuệ, mới thực sự là đạo bất động tâm. Còn  những  loại  pháp  môn  khác  chuyên  tụng kinh, niệm  Phật,  sám  hối,  ngồi  thiền,  niệm chú, bắt ấn, cầu an, cầu siêu, thần thông phép thuật,  biết  chuyện  quá  khứ  vị  lai,  xem  sao, đoán vận mạng, xem ngày giờ tốt xấu cất nhà dựng vợ  gả  chồng,  v.v..  toàn  là  những  pháp môn  lừa  đảo,  lường  gạt  người,  mua danh  bán lợi, buôn Phật bán pháp. Cho nên, đức Phật gọi đó  là  những  trò  ảo  thuật  lừa  bịp, gian  xảo  của những  Ma  Vương  Ba  Tuần,  của  Quỷ  La  Sát,
v.v..

Để mọi người thấy rõ giáo pháp của đức Phật  hơn,  bằng  hai  câu  kệ  dưới  đây  Ngài  đã xác định cho mọi người biết rõ để  khỏi lầm lạc tà pháp của ngoại đạo:
“Tu  gốc nghiệp  lành này

Phân biệt ở  chánh hạnh”.



Trong   đời   sống    hằng   ngày,   chúng   ta không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì đó không phải là gốc thiện sao?
Câu  kệ  thứ  hai  chỉ  cho chúng  ta  thấy  rõ hơn, nếu muốn biết người tu chứng đạo thì hãy nhìn  vào đạo  đức của họ: “Phân biệt  ở  chánh hạnh”.  Phân biệt ở  chánh hạnh, quí vị thấy có khó không? Chánh hạnh là gì? Chánh hạnh là những hành động đoan chánh ngay thẳng, thấy sai  nói  sai, thấy  đúng nói  đúng, thấy  của  Phật nói của Phật, thấy của Đại Thừa nói của Đại Thừa,  chứ  không  nịnh  bợ,  a dua hay  thấy  sai mà  không  dám  nói  sai, thấy  của  Đại  Thừa  lại nói  là  của  Phật.  Đối  với  Phật  giáo  đó   là  tà hạnh hèn nhát không phải chánh hạnh.
Từ   xưa  đến  nay  chúng  ta  thường  bị  các pháp  môn ngoại  đạo lừa đảo  nào là  có thế giới siêu  hình;  nào  là  ông  Thánh  này  bà  Chúa  kia ban phước  giáng  họa;  nào  là  Thiên  đàng,  Cực lạc,  Niết  bàn;  nào  là  Địa ngục,  Diêm  vương, Quỷ   sứ,   Ngưu   đầu,   Mã   diện,   Ngọc   Hoàng Thượng Đế, Thánh, Thần, Tiên, Phật, tà ma, quỷ quái đủ loại, v.v..; nào là ngồi thiền nhập định; nào  là  để  lại  nhục  thân;  nào  là  tái  sanh luân hồi biết chuyện tiền kiếp của mình;  nào là đại  ngã  tiểu  ngã;  nào  là  bản  thể  vạn  hữu;  nào



là có đấng Tạo hoá, Phật tánh, thần thức, linh hồn, v.v.. đều là những trò ảo thuật lừa đảo mọi người mà thôi.
Những trò ảo thuật này chẳng có gì thiết thực cụ thể, toàn là ảo tưởng, mơ hồ, ảo giác,... và  chẳng  có  gì lợi ích  cho loài  người,  mà  còn làm hại cho con người “tiền mất tật mang”.
Tóm lại, những gì Đạo Phật đã dạy cho chúng  ta  tu  tập  và  sống  thiện  pháp  đều  nằm trong cuộc sống rất thực tế, cụ thể, thường đem lại  lợi  ích  thiết  thực  cho  con  người.  Là  con người, chúng ta chỉ cần biết sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng  sanh,  thì ngay đó  là  hạnh  phúc,  là  giải thoát rồi, còn có gì đâu mà đòi hỏi phải có thần thông, pháp thuật; phải ngồi thiền năm bảy ngày;  phải  được  vãng  sanh  vào  cõi  Cực  lạc, Thiên đàng, Niết Bàn, v.v.. Tu hành theo Phật giáo thì giải thoát ngay liền không cần chờ đợi không gian và thời gian nào cả.

MỌI NGƯỜI GIÀ TRẺ ĐỀU TU CHỨNG

Đạo Phật là đạo bình đẳng: người già cũng như người tuổi trẻ, người nào cũng có thể tu chứng  đạo  giải  thoát  và  cũng  được đức   Phật xem  như  nhau.  Đạo  Phật  là  đạo  vô  giai  cấp,



người  tu  sĩ  cũng  như  người  cư sĩ,  nếu  ai  tu chứng  cũng  đều  được gọi  là  Trưởng  lão  giống như  nhau.  Khi tu  chứng  người  nào  cũng  giống như  người  nào,  người  nào  cũng  vô  lậu.  Trong Đạo Phật không có người tu chứng cao, người tu chứng thấp, vì thế Đạo Phật là đạo  bình đẳng.
Tuổi  trẻ  mà  biết   phân  biệt   được thiện pháp  và  ác  pháp,  biết  sống  ngăn  ngừa  và  diệt ác pháp, luôn luôn sống với mọi người với mọi loài chúng sanh trong thiện pháp, tức là không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, thì người  ấy  được gọi là  Trưởng  lão.  Hai câu  kệ dưới  đây  đức  Phật  đã  xác  định rõ  điều
này:

“Phân biệt chánh pháp lành

Đây gọi là Trưởng lão”.

Lời đức Phật dạy rõ ràng như vậy, cớ sao quý vị tu tập khó quá! Quý vị có biết tại sao không?  Chỉ  vì  quý  vị  còn  tiếc  dục  và  ác  pháp nên  chưa  muốn  từ  bỏ,  chưa  muốn  xa  lìa. Có phải vậy không?
Hai   câu  kệ   trên  đây  đã   xác  quyết  con đường  giải  thoát  của  Đạo  Phật  không  ngoài thiện  pháp.  Cho  nên,   không   cần  phải   tụng kinh, niệm Phật, luyện bùa, đọc thần chú, ngồi



thiền nhập định mới là giải thoát. Có những người  cho rằng:  Những  hạng  người  căn  cơ còn thấp  kém  thì phải  tụng  kinh niệm  Phật,  ngồi thiền, v.v.. Niệm Phật, ngồi thiền tưởng, cúng bái, tế lễ,  cầu siêu, cầu an, v.v.. là  những pháp môn  mê  tín. Cho nên  lời dạy  này  là  lời  ngụy biện che đậy những tà pháp. Như chúng tôi đã hiểu không lầm, căn bản của Đạo Phật là giới luật, là  đạo  đức làm  người, làm Thánh.  Vì thế, hành giả phải biết khắc phục tâm mình; phải biết sửa lỗi lầm khi mình  phạm phải; phải biết xấu  hổ  khi làm  một  điều  ác,  khiến  cho mình khổ, người khổ, chúng sanh khổ.
Người nào còn chấp Thiền, chấp Định, chấp  Tịnh, chấp  Mật  là  đã   tu  sai  Đạo  Phật. Một  bằng  chứng  cụ  thể  chứng  minh  cho chúng ta thấy rằng: Từ xưa đến nay, trong bốn tông phái này không có một vị tu sĩ hay một vị cư sĩ nào sống toàn thiện không làm khổ mình,  khổ người  và  khổ  tất  cả  chúng  sanh.  Vì  thế,  cho đến ngày nay chưa thấy có một vị Sư, Thầy hay một  vị  cư sĩ  nào làm  chủ  sanh, già, bệnh,  chết và  chấm  dứt  luân  hồi;  thường  chết  trong  bệnh đau và chết trong tưởng định.
Cho nên, kinh Pháp Cú đã xác định rõ rằng:  muốn  tâm  thanh  tịnh  để  nhập  các  loại



định làm  chủ  sự sống  chết,  chấm  dứt  luân  hồi thì chỉ  có  ngăn  ác  diệt  ác  pháp  và  luôn  sống trong thiện pháp:
“Chư ác mạc tác

Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo”.


Dịch
“Các pháp ác chớ làm Các pháp thiện nên làm Tự tâm ý thanh tịnh
Đây lời chư Phật dạy”.


Tóm  lại,  ba bài  kệ  trên  đây  đã  xác  định khi tu  theo  Đạo  Phật  là  phải  thực  hiện  pháp nào đúng của Đạo Phật. Nếu không xác định được pháp  môn  tu  hành  chân  chính  của  Đạo Phật thì dù chúng ta có tu ngàn đời, muôn kiếp cũng  chẳng  tìm thấy  được sự  giải  thoát,  chỉ uổng phí một  đời  tu hành, chẳng ích lợi gì cho mình và cho người khác. Trên đời này, chỉ có Phật  giáo  mới  có  pháp  duy nhất  dạy người  tu tập thoát ra bốn sự khổ đau sanh, già, bệnh, chết.



Đạo  Phật  lấy  đạo   đức  nhân  bản  –  nhân quả,  không  làm  khổ  mình,  khổ  người  và  khổ tất  cả  chúng  sanh  làm  tiêu  chuẩn  sống  để  tu tập  và  rèn  luyện  thân  tâm  mình  cho có  những hành  động  đạo  đức,  khiến  mình  và  mọi người đều được  thanh thản, an vui và hạnh phúc. Đây mới chính là mục đích giải thoát của Phật giáo.


HỔ THẸN
LỜI PHẬT DẠY

“Có hai  nhân duyên mà người tu sĩ đệ tử của đức Phật phải hết sức quý trọng. Đó  là  biết  hổ  và  biết  thẹn.  Nếu con  người  không biết  hai  việc  này  thì cha, mẹ, anh,  em, dòng họ thân tộc, tôn ti cao  thấp không thể  phân  biệt.  Như các loài gà, chó, heo, dê, lừa, ngựa chúng đều cùng một loại nhưng  không có  tôn  ti, trật tự,  vì chúng  không  biết hai pháp này”.
“Do  có  hai pháp  đạo  đức  này ở  đời nên ắt biết có tôn ti sai khác, nhưng những người lìa hai pháp này thì  cũng giống  như   bầy  gà,  chó,   heo,  dê,  lừa, ngựa,  v.v..  kia vậy,  thật không thể  lễ
bái họ được’’.

(Tăng Nhất A Hàm trang 117)


CHÚ GIẢI:



Đạo   Phật   lấy   thiện   pháp   làm   pháp
môn  tu  tập  để   đẩy  lùi  các  ác  pháp,  nên  Đạo Phật có một nền đạo  đức nhân bản – nhân quả làm  Người,  làm  Thánh  được đức   Phật  chú  ý hàng  đầu.  Vì thế,  toàn  bộ  kinh sách  Phật  giáo đều lấy giới luật làm gốc để  dạy người tu tập từ cơ bản  đến  Tam  Minh. Bởi  vì  con người  cũng chỉ  là  một  loài  động  vật,  nhưng  loài  động  vật cao cấp. Dù cao cấp đến đâu bản chất loài động vật  vẫn  còn.  Muốn  trở  thành  một  con  người thật là con người, thì phải sống có đạo đức trọn vẹn,   sống   một   đời  sống   biết   thương   người, thương  vật  như  thương  chính  mình.  Đạo  đức làm người chưa đủ để giúp cho chúng ta thoát kiếp làm người đầy khổ đau. Vì vậy, chúng ta phải tiến bước trên đường đầy đủ  trọn vẹn đạo đức cao hơn nữa để trở thành những bậc Thánh vô  lậu,  làm  chủ  bốn  sự   đau  khổ:  sanh,  già, bệnh,  chết  và  chấm  dứt  luân  hồi.  Đó   là  ước vọng của những người có cái nhìn  thấy thế gian này  khổ  như  thật,  và  biết  pháp  Phật  là  giới luật  đạo  đức cao quý  tuyệt  vời,  giúp  con người mãn nguyện.
Cho nên,  những  vị  Tỳ  Kheo Tăng  và  Tỳ
Kheo  Ni hoặc  những  vị  cư sĩ  xem thường  giới



luật, luôn luôn sống phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, để  chạy theo dục lạc thế gian, thì dù  có tu trăm  ngàn  kiếp  cũng  chỉ  thành  loài  sâu  bọ trong  Phật  giáo  mà  thôi.  Những  người  tu  sĩ hoặc  cư sĩ  sống  phạm  giới,  phá  giới,  bẻ  vụn giới,  thường  đắm  chìm  trong  dục  lạc  thế  gian thì không bao giờ tìm thấy sự hỷ lạc, giải thoát trong  Đạo  Phật,  bởi  vì  đức  Phật  đã  xác  định: “Do  ly dục sanh hỷ lạc”. Còn các thầy Đại Thừa và Thiền Tông hiện giờ xem thường giới luật  thì dù  cho các  vị  có  ngồi  thiền  một  ngàn năm cũng chỉ lạc vào ma thiền, chứ không bao giờ chứng được  sự giải thoát chân thật.
Giới là một pháp môn vô lậu mà cũng là một  pháp  môn  dạy  về  đạo  đức tuyệt  vời.  Giới làm  Người,  giới  làm  Thánh  một  cách  rõ  ràng và cụ thể; giới cũng là một pháp môn để  chuẩn bị cho hành giả nhập các loại chánh định. Nếu không  tu   giới   luật   thì  không  bao  giờ   nhập chánh định được. Không nhập chánh định được mà  nói  nhập  định  là  nói  vọng  ngữ  lừa  đảo người  khác,  bởi  chánh  định là  loại  thiền  định không dành cho những người phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới. Đúng như vậy quý vị ạ!
Người muốn giữ gìn giới luật mà không biết xấu  hổ  thì không  bao giờ  giữ  gìn giới  luật



được, cũng giống như người muốn tu thiện pháp mà không biết xấu hổ thì không bao giờ tu tập thiện pháp được.  Đó là một điều xác quyết chắc chắn  như  vậy,  không  ai  có  thể  thay  đổi được điều  này.  Nếu  ai  dám  cả  gan  thay  đổi  pháp môn  của  đức  Phật  là  sẽ  tu tập  lạc  vào  pháp  tà
đạo.

Người muốn giữ gìn đức hạnh làm Người, làm Thánh mà không biết xấu hổ thì  chẳng bao giờ giữ gìn đức  hạnh được, cũng như thế, người muốn tu hành giải thoát mà không biết xấu hổ thì không  bao giờ  có  giải  thoát  được. Chỉ  có pháp ngoại đạo mới không biết xấu hổ.
Bởi  vậy,  tàm  quý  (xấu  hổ)  là  đức  hạnh mà người không tôn giáo cũng như người có tôn giáo  đều  phải  quý  trọng  hơn  vàng  bạc,  châu báu,  ngọc  ngà  vì nó  giúp  cho con người  có  đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh; nó giúp cho con người giải thoát khỏi tâm phiền não, khổ đau, giận hờn, thương ghét;  nó  giúp  cho con người  có  một  cuộc  sống an  vui,  thanh  thản  và  vô  sự;  nó  giúp  chuyển cảnh giới thế gian thành Thiên đàng, Cực lạc.
Nếu người nào không biết tàm quý thì người  đó  chẳng  khác  loài  cầm  thú,  chẳng  còn biết luân thường đạo lý gì cả.



Nếu   người   nào   sống   trong   ác   pháp thường làm khổ mình,  khổ người và khổ tất cả chúng  sanh,  mà  không  biết  xấu  hổ  (tàm  quý), thì đó  cũng là loài ác thú chứ không còn là con người và còn tệ hơn thế nữa, họ là loài ác quỷ.
Nếu một vị Tỳ Kheo Tăng hay một vị Tỳ Kheo Ni hay một  vị  Cư sĩ  phạm  giới, phá  giới, bẻ vụn giới mà không biết xấu hổ (tàm quý) thì họ là loài bọ chét trong lông  thú vật, đức  Phật thường  nhắc  nhở  chúng Tỳ  Kheo trong  câu nói này: “Trùng  trong lông  sư tử  ”. Những  tu sĩ và cư sĩ này không phải đệ  tử của đức Phật. Họ là  những  người  tán  tận  lương  tâm  và  tệ  hơn nữa  họ  là  loài  Ma  vương  cùng  với  ma  chúng đang cố tình  diệt Phật giáo.
Tóm lại,  tàm  quý  là  đức biết  xấu  hổ,  nó là một pháp môn rất cần thiết cho người đời cũng  như người  trong  đạo. Người  có  quyết  tâm tìm đường  cứu  mình  thoát  ra sanh,  già,  bệnh, chết và luân hồi thì tàm quý là pháp môn hàng
đầu.

Nếu  làm  người  mà  không  biết  xấu  hổ, như đã nói, thì có khác nào là thú vật, luân thường  đạo  lý  trong  thế  gian  này  sẽ  đảo  lộn, cang thường đạo  đức (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) không còn nữa. Người ta sẽ chà đạp lên nhau vì



sự sống miếng ăn, manh áo và vật chất; tình người  sẽ  bị  mất  đi;  trên  hành  tinh này  chiến tranh không  bao giờ  chấm  dứt.  Loài  người  chỉ còn là một loài thú vật thông minh cấu xé, giết hại lẫn nhau mà thôi.
Tóm  lại,  đoạn kinh trên  dạy  cho chúng ta tu tập đức xấu hổ. Đức xấu hổ là một hành động cao quý tốt đẹp của loài người, nếu không có đức xấu hổ con người chỉ là con thú vật. Nhờ đức  xấu  hổ  mà  con người  không  làm  điều  ác, tăng trưởng làm những điều thiện khiến cho sự sống  trên  hành  tinh này  được  an vui  và  hạnh phúc.





KHĨ! KHĨ! KHĨ!!!


LỜI PHẬT DẠY

“Như Lai ra đời rất  khó gặp,  thân người khó được,  sanh  trưởng vào trung tâm  của  đất  nước  cũng  khó được,  gặp thiện tri thức cũng  khó, gặp  được chánh pháp cũng khó, nghe được pháp cũng khó”.
(Tăng Nhất A Hàm tập 3 trang 218)


CHÚ GIẢI:

Đời người sanh ra có sáu cái khó mà mọi người  chẳng  ai  lưu ý,  vì thế  cuộc  đời  phải  chịu biết bao nhiêu điều thống khổ. Khi tu hành chứng đạo,  đức Phật nhìn  thấy chúng sanh bạc phước, vô duyên nên cảnh báo cho biết có sáu điều khó để mọi người cảnh giác như đoạn kinh trên đây đã xác định:

    Khó  thứ  nhất:  “Như  Lai ra đời rất khó gặp”.  Vậy  Như  Lai  nghĩa  là  gì? Như  Lai là một danh hiệu của đức Phật.



Sanh  ra được đồng  thời  với  đức  Phật  là một  điều khó,  cũng  như chúng  ta  hiện  giờ  làm sao sanh ra đồng  thời  với  đức  Phật  được. Phải không hỡi các bạn?
Chúng ta sinh  ra đời  đã cách xa đức  Phật
2548 năm,  đến  ngày  nay nhìn  lại  tu  sĩ  hay cư sĩ của Phật giáo ngoài hình thức đầu tròn áo vuông của một tu sĩ, hay một cư sĩ  mà thôi còn bên  trong  chỉ  là  Ma  Ba Tuần  đội  lốt  để  kinh doanh mê tín, trừu  tượng, ảo  giác thế  giới  siêu hình.  Vì thế, người tu theo Phật giáo rất đông, nhưng  chẳng  có  ai  giải  thoát  thực  sự.  Nếu  tất cả  mọi  người  được sanh  ra đồng  thời  với  đức Phật  là  một  điều  may mắn  nhất  trên  đời,  nhờ đó chúng ta nương tựa vững chắc vào Ngài tu hành, thì đến nay mọi người sẽ tu hành  chứng đắc quả A La Hán không biết bao nhiêu kể cho
hết.

Bởi vậy gặp Phật là khó, ngày xưa khi đức Phật  sinh  ra, nhà  vua nhờ  vị  Tiên  nhân  Asita đến xem tướng số cho đức Phật thì ông quỳ xuống  đảnh  lễ   Phật  sơ sinh  và  khóc  to.  Nhà vua thấy thế mới hỏi:
-           Sao ông lại khóc?

Tiên nhân Asita  trả lời:

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


-    Ngày  sau  này  thái  tử  lớn   lên  đi  tu thành Phật, lúc bây giờ tôi đã chết rồi còn đâu hỏi đạo tu hành, nên tôi khóc vì buồn tủi.
Sinh  ra không đồng thời với bậc Giác ngộ là  một  điều  bất  hạnh  to  tát  của  đời  người,  bởi vì “Như Lai ra đời rất khó gặp”.
Gặp được Phật ra đời là khó. Sinh  ra đồng thời với Phật không phải dễ. Nhưng biết bao nhiêu  người  sinh   ra  đồng  thời  với  Phật  mà chưa  hề  biết  đến  Phật.  Người  biết  đến  Phật trong thời đó chỉ là thiểu số trong dân tộc Ấn Độ. Nhưng có những kẻ gặp được Phật lại phỉ báng  Phật,  lăng  nhục  Phật,  muốn  giết  Phật, v.v.. Thật là “vô duyên  đối diện bất tương phùng”.

     Khó  thứ  hai:  “Được   thân  người   là khó, khó  như   con  rùa  mù  tìm bọng  cây giữa biển Đông”.
Lời dạy này chúng ta hãy tư duy. Khi mất thân này rồi, trăm muôn ngàn kiếp không biết có đủ duyên để sanh lại làm người nữa hay không? Chắc khó lắm. Nhưng thân người chỉ sống có một thời gian quá ngắn ngủi, thế mà người đời đã tiêu phí năm tháng của thân này một  cách  nhảm  nhí,  chẳng  có  ích lợi gì cả,  chỉ



loanh  quanh  để   phục  vụ  cho những  điều  bất tịnh:  ăn,  ngủ,  dâm  dục,  đi  cầu  chứ  chẳng  có nghĩa lý gì tốt đẹp. Có phải vậy không các bạn?
Người  cư sĩ  cũng  như  người  tu  sĩ,  họ  đều biết cuộc đời là khổ, thế nhưng họ không dám buông bỏ. Không dám buông bỏ, nhưng rồi cũng phải  buông  bỏ  để  đi  vào  cõi  chết  với  hai  bàn tay trắng. Con người  chết  đi thân ngũ  uẩn tan hoại  hết,  không  còn  tồn  tại  một  vật  gì, nhưng vì cuộc  sống  hằng  ngày  luôn  tạo  thiện  hay tạo ác. Do hành động tạo thiện ác đó  đã  trở thành nghiệp lực tham, sân, si. Nghiệp lực tham, sân, si tiếp tục tương ưng với tâm tham, sân, si của mọi người và mọi loài vật mà tái sanh luân hồi.
Bởi không buông bỏ  tâm tham, sân, si tức là chấp nhận nó để tiếp tục sống trong sự đau khổ như tất cả các loài chúng sanh khác. Còn nếu theo lộ trình tu hành của Đạo Phật mà biết buông bỏ sạch thì họ không còn khổ đau nữa và cũng chấm dứt luân hồi.
Tu sĩ và Cư sĩ thời nay chẳng có vị nào buông  bỏ  cả.  Họ tích  lũy  thêm  vật  chất,  sống rất tiện nghi như một người giàu có và họ cũng còn  ham  vui  như  người  thế  tục.  Đi  tu  như  họ chỉ uổng công mà thôi. Họ không tiếc thời gian của thân họ sắp tàn tới nơi rồi, tuổi đời không



còn  mấy  năm  nữa,  nên  Phật  dạy: “được  thân người là khó” thế mà mấy ai biết !!!
Khi chết  rồi  không  chắc  gì  chúng  ta  sẽ sinh  làm  thân  người  liền, mà  phải  sanh  làm loài  vật  như  cá,  tôm,  vịt, gà,  heo, dê,  trâu  bò, chó, ngựa, v.v.. chỉ vì chúng ta đã giết chúng để ăn thịt. Nợ xương máu phải trả  chứ không thể nào trốn  chạy thoát  khỏi.  Ăn  một  mạng  chúng sanh phải trả mười mạng. Các bạn có biết không?
Như vậy, được thân người là khó chứ đâu phải  dễ.  Một  đời  của  bạn  biết bao nhiêu  tôm, cá, gà, vịt, heo, dê  đã  chôn vùi trong thân bạn. Một  con vật  bị  bạn  ăn  thịt  thì bạn  phải  tái sanh làm mười con vật. Và như vậy, từ khi bạn mới  biết ăn  thì cha mẹ  đã  cho bạn  ăn  thịt  cá, đến suốt cuộc đời  bạn bảy tám mươi tuổi thì số lượng thịt  cá  bạn ăn  không  thể  tính hết  được. Theo  luật  nhân  quả  phải  nhân  lên  gấp  mười lần  thì biết  chừng  nào  bạn  trả  cho hết  thân mạng chúng sanh! Cho nên, được thân người là khó lắm bạn ạ!
Được thân người mà  làm người  thật  người thì còn khó hơn. Phải không hỡi các bạn?
Bởi vì như các bạn đã biết: con người thật người thì phải sống đúng năm tiêu chuẩn này:
 
NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


dạy  người tu tập ly dục  ly ác pháp   là loại
thiền phàm phu.

Tập   sách này sẽ  giúp cho  các bạn biết cách  thức tu thiền xả tâm với những bài pháp ngắn gọn  của đức Phật,  nhưng rất  rõ ràng  và dễ hiểu,   có như vậy các bạn tu  tập mới không lạc vào thiền ức  chế tâm của kinh sách phát  triển Đại  Thừa và Thiền Tông hoặc của Bà  La Môn Giáo hay   của ngoại
đạo.

Tập   sách này ra đời chỉ   có   ước vọng
làm sáng tỏ lại đường lối tu hành của  Đạo Phật và giúp cho những ai có  nhiệt  tâm tu tập sẽ thấy kết  quả ngay  liền, nếu  không có kết  quả tức là các  bạn   đã  tu   sai   cần phải thưa hỏi lại thiện hữu tri thức.

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Cuối cùng, chúng tôi xin   các bạn  nên
lưu ý  những lời dạy  ngắn gọn  của đức Phật là những lời vàng ngọc,  hãy trân trọng  và tôn kính  thì  con  đường tu  tập của   các  bạn mới đạt  được  chân giải thoát.

Kính ghi,
Trưởng lão Thích Thông Lạc
Ngày 30-1-2000
TRƯỞNG LÃO


LỜI PHẬT DẠY

“Nếu rõ pháp như  thật Vô hại đối quần sanh Bỏ các hạnh uế ác
Đây gọi là Trưởng lão”

--o0o--

“Ta  gọi người Trưởng lão

Chưa  hẳn  đã xuất gia Tu gốc nghiệp lành này Phân biệt ở  chánh hạnh”
--o0o--

“Nếu có người tuổi nhỏ Các căn không thiếu sót Phân biệt chánh pháp lành
Đây gọi là Trưởng lão”


CHÚ GIẢI:

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


TU       HÀNH            KHÔNG         KHÓ,  KHÓ   LÀ NGƯỜI KHÔNG LY DỤC LY ÁC PHÁP
Đọc bài kệ trên đây chúng ta thấy tu hành theo Phật giáo không khó, khó là tại chúng ta không  chịu ly  tâm tham, tâm sân, tâm si. Nếu chịu khó và quyết tâm lìa tâm tham, sân, si thì ngay  đó   được gọi  là  Trưởng  lão.  Trưởng  lão trong  Đạo  Phật  được xem là  một  bậc  tu  chứng đã giải thoát hoàn toàn như bậc A La Hán. Trưởng lão không phân biệt tu sĩ hay cư sĩ, không  phân  biệt  tuổi  tác  nhỏ  hay  lớn,  dù   là người  tu  sĩ  lớn  tuổi  hay  trẻ  tuổi,  người  cư sĩ cũng vậy, một khi đã  tu chứng thì đều được  gọi là  Trưởng  lão.  Ngược  lại,  dù   một  vị  Tỳ  kheo tám  mươi  tuổi  mà  tu  không  chứng  thì không được gọi là Trưởng lão, chứ không phải tu lâu năm rồi thành sư cụ theo kiểu Đại Thừa.
Đọc  bài  kệ   này,  chúng  ta  thấy  rất  rõ, muốn tu chứng đạo giải thoát của Phật giáo thì phải  thấu  rõ  pháp  môn  của  đức  Phật  dạy  tu như thế nào.
Câu kệ  đầu: “Nếu rõ  pháp như  thật” nhấn mạnh vào ba chữ  “rõ như thật”. Vậy rõ như thật là rõ cái gì? Rõ như thật có hai nghĩa, các bạn cần phải hiểu:

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


1-  Biết rõ như thật pháp của Phật dạy, không bị lầm lạc pháp của ngoại đạo.
2-   Hiểu rõ   nghĩa  lý  thiện  pháp   và   ác pháp đúng như lời đức Phật đã dạy.
Muốn hiểu rõ nghĩa lời Phật dạy trong câu kệ  thứ  hai:  “Vô  hại  đối quần  sanh”  thì cần phải hiểu cái gì vô hại. Đó chính là pháp thiện, pháp  không  làm  khổ  mình,  khổ  người  và  khổ tất cả chúng sanh.
Vậy, mục đích của Đạo Phật dạy chúng ta tu  hành  là  dạy  sống  trong  thiện  pháp  không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Không  làm  khổ  mình,  khổ  người  và  khổ tất cả chúng sanh, tức là “ly dục ly ác pháp”.
Để xác định, một lần nữa đức Phật dạy: “Bỏ  các  hạnh  uế  ác”.  Câu  này  Phật  dạy quá rõ ràng không còn nghi ngờ gì nữa, chỉ rõ pháp thiện  như  thật  để  ngăn  và  diệt  ác  pháp,  luôn luôn  sống   trong  thiện  pháp  không  làm  khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì ngay đó  là  một  bậc tu chứng  của Đạo Phật. Có đúng như vậy không các bạn? Pháp tu như vậy có khó không? Nếu các bạn đã sống tâm ly dục ly  ác  pháp  thì các  bạn  là  bậc  giải  thoát,  là người  tu  đã   chứng  đạo.  Như  vậy,  ngồi  thiền, niệm  Phật,  tụng  kinh, bái  sám,  v.v..  có  giải

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


thoát không? Có chứng đạo không? Xin các bạn trả lời đi!
Các  bạn  cứ  xem từ  xưa cho đến  ngày  nay Đại Thừa và  Thiền Tông dạy người  ngồi thiền, niệm Phật, tụng kinh, lạy hồng danh chư Phật và  sám  hối  mà  có  ai  ly  dục ly  ác  pháp  không? Có   ai   là   người   xứng   đáng   được gọi   là   bậc Trưởng lão  chưa? Hay thấy một vị tu sĩ ở   chùa lâu năm, làu thông kinh sách, tán tụng hay thì gọi  là  Trưởng  lão.  Trưởng  lão  này  cũng  giống như Sư Cụ ở chùa lâu năm mà thôi.
Câu thứ tư trong bài kệ nhấn mạnh một cách xác quyết: “Đây gọi là Trưởng lão”. Nếu một  người  tu  theo  Đạo  Phật  không  làm  khổ mình,  khổ  người  và  khổ  chúng  sanh  thì đó  là bậc  Trưởng  lão,  tức  là  người  đã  tu  chứng  quả giải thoát. Thật ra, muốn không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, là phải có một quá trình tu tập chứ không phải nói suông mà có được  dễ dàng.
Đọc bốn câu kệ này các bạn thấy pháp của đức Phật đâu có dạy ngồi thiền ức chế tâm cho hết vọng tưởng để kiến   tánh thành Phật; hay niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc Tây Phương; hay niệm chú để có thần thông pháp thuật biến hóa tàng  hình;  hay để có Tha Tâm  Thông biết

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


chuyện  quá  khứ  vị  lai của  mọi người;  hay tụng kinh, sám  hối,  lạy  hồng  danh  chư Phật  để  cho tiêu  tai, giải  nạn,  v.v..  Ở   đây,  đức  Phật  chỉ  có dạy chúng ta sống  ngăn ác, diệt ác pháp,  sanh thiện,  tăng  trưởng  thiện  pháp,  tức  là  không làm  khổ  mình,  khổ  người  và  khổ  tất  cả  chúng sanh  thì chứng  đạo,  chứ  không  phải  cần  thấy tánh mới thành Phật như Thiền Tông đã dạy: “Kiến  tánh  thành  Phật”.  Khi tu  hành  nhận được “tánh thấy, tánh nghe, tánh biết” mà tâm  tham,  sân,  si  vẫn  còn  thì giải  thoát  ở   chỗ nào?  Nên  có  người  mới  hỏi  Thiền  sư tại  sao vậy?  Thiền  sư trả  lời:  “Tại  vì  tạp khí còn”.  Do câu trả lời này mà người ta bảo rằng lưỡi của Thiền sư là lưỡi lừa. Đúng vậy, Thiền Đông Độ và kinh sách Đại Thừa quả thật đã lừa đảo chúng ta.
Bài kệ này trong kinh Nguyên Thủy thuộc hệ A Hàm trong Hán Tạng mà còn giữ gìn được nguyên  gốc  lời dạy  chân  chánh  của  đức  Phật thì quả  thật  chúng  sanh còn  nhiều  duyên  lành với Chánh pháp của Phật. Bài kinh này dạy tu hành  rất  cụ  thể  và  xác  thực  từ  lúc  bắt  đầu  tu cho đến  khi giải  thoát  hoàn  toàn  một  cách  rõ ràng  cụ  thể:  “Pháp  Ta không  có  thời  gian đến  để  mà thấy...”.  Pháp  Phật  tu  tập  không

NHỮNG LỜI GỐC PHẬT  DẠY – TẬP I


mơ  hồ,  không  trừu  tượng  như  pháp  môn  của kinh sách Đại Thừa và Thiền Đông Độ.
Như chúng ta đã biết kinh Nguyên Thủy A Hàm thuộc Hán Tạng là  do các Tổ  Bà  La Môn kết tập nên đã bị các Tổ thêm, bớt rất nhiều, khiến cho Tạng kinh này không còn mang tính chất Nguyên Thuỷ rạch ròi của nó. Hòa Thượng Thích Minh Châu khi lập Luận án Tiến sĩ Phật học, Ngài đã đem hai bộ kinh Trung A Hàm thuộc  Hán  Tạng  và  Trung  Bộ  kinh thuộc  Tạng kinh Pali ra so sánh thì thấy có rất nhiều điểm sai khác to lớn khiến cho người sau đọc kinh A Hàm  không  biết  lời dạy  nào  đúng  là  lời  của Phật và lời dạy nào không đúng. Vì thế, trên bước đường tu học của chúng ta ngày nay nếu không có thiện hữu tri thức có kinh nghiệm hướng  dẫn  thì chắc  chắn  sẽ  dễ  dàng  tu  sai  lạc vào pháp môn của ngoại đạo.
Theo bốn câu kệ này, nếu chúng ta nhiệt tâm  tinh  cần  tu  tập  hằng  ngày  sống   trong thiện pháp không làm khổ mình,  khổ người và khổ  tất  cả  chúng  sanh  thì chúng  ta  sẽõ  chứng đạo. Chứng đạo một cách dễ dàng, chứ không phải như mọi người đã nghĩ: Khó quá!!!
Kính  thưa quý  vị! Tu như bài kệ  trên đây dạy thì không khó. Phải không quý vị?

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


Tu, chúng ta chỉ cần biết sống cho đúng thiện  pháp,  không  làm  khổ  mình,  khổ  người, khổ  chúng  sanh.  Tu như  vậy  là  hạnh  phúc  là an vui, thanh thản và vô sự cho mình,  cho mọi người  và  cho muôn  loài  chúng  sanh.  Đó  chính là  sự  giải  thoát  chân  thật  của  Đạo  Phật,  chứ đâu  phải  tu  tập  là  phải  chịu  cực  khổ  vào  chùa làm công quả, rồi hằng ngày niệm Phật, tụng kinh, bái sám, cầu nguyện cho tiêu tai, giải tan nghiệp  chướng;  cho bệnh  tật  tiêu  trừ;  cho được vãng sanh về Cực Lạc Tây Phương; hoặc ngồi thiền để kiến   tánh thành Phật; hay lạy hồng danh chư Phật để được gia hộ giải thoát. Luật nhân  quả  không  chấp  nhận  những  điều  này, nên  dù  cho suốt  tháng  ngày  niệm  Phật,  tụng kinh, cầu  nguyện  cũng  không  bao giờ  bệnh  tật tiêu trừ, tai qua nạn khỏi; dù có lạy hồng danh chư  Phật  đến  mòn  đầu  gối  cũng  không  giải thoát.  Giải  thoát  đâu  chẳng  thấy  mà  chỉ  thấy phí  công  vô  ích.  Còn  ngồi  thiền  thì đau chân như ai  bẻ,  tê  chân  như ai  đần,  nóng  chân  như ai  đốt  lửa,  đạo  đâu  chẳng  thấy,  chỉ  thấy  mình ngu si tự làm khổ mình.  Ngồi thiền cố gắng tập trung  tư  tưởng  không  cho niệm  thiện,  niệm  ác xen  vào,  đến  nỗi  đầu  nặng  như  đội  đá,  mặt căng   như   da  trống.   Tuy  khổ   đau  như   vậy, nhưng vẫn tu tập không dám bỏ một phút, một



giây  nào,  cho đến  khi bị  nhức  óc,  đau đầu  như ai  lấy  dây  xiết  quanh đầu,  đau nhức  như bưng, thế  mà  Phật  tánh  có  giúp  cho mình  hết  khổ đau  được không?  Có  hết  tham,  sân,  si,  mạn, nghi không? Rõ ràng bỏ của, bỏ công, phí sức tu tập  mà  không  tìm giải  thoát  được, chỉ  toàn sống trong xúc tưởng hỷ lạc ảo giác, do ngu si không hiểu biết thiền định nên cho đó  là thiền định. Thật là tội nghiệp cho những người mù muốn biết màu sắc. Ôi! Đáng thương xót vậy.
Tóm lại, bốn câu kệ trên cho thấy sự tu hành của Đạo Phật không khó, tu đến đâu là có giải thoát đến đó ngay liền; có khó chăng là chỉ những người không muốn tìm sự giải thoát nên không chịu bỏ những ác pháp, không chịu từ bỏ xa lìa tâm ham muốn dục lạc thế gian.
Thường những người ưa thích ngồi thiền kéo  dài  nhiều  thời  gian  không  vọng  niệm,  để kiến tánh   thành   Phật,   hoặc   ham   mê   thần thông nên tu khổ hạnh, chịu đau khổ, không muốn  rời  sự  đau khổ,  lấy  sự  đau khổ  làm  sự giải  thoát  để   đạt  được  mục  đích  thần  thông. Đối  với  Đạo  Phật,  những  sự  tu  tập  đó   là  đi ngược lại đường lối giải thoát của Phật. Do những sự ham mê như trên đã nói, nên họ thấy tu tập là tu khó.



Đối với những người có quyết tâm vượt thoát  ra khỏi  bản  chất  loài  cầm  thú  của  mình thì Đạo  Phật  tu  hành  không  khó,  tu  hành  rất dễ   dàng;  chỉ  khó  đối  với  những  người  không chịu lìa xa, không muốn từ bỏ bản chất cầm thú của  mình  nên  đành  phải  chịu  khổ  đau muôn đời, muôn kiếp.

NGƯỜI  TU  CHỨNG KHÔNG  PHÂN  BIỆT NGƯỜI XUẤT GIA  HAY  TẠI GIA

Người đời thường có quan niệm cho rằng người xuất gia mới tu chứng Thánh quả A La Hán, mới thành Phật, còn người tại gia thì không bao giờ tu chứng được. Đối với Đạo Phật những quan niệm này sai lầm. Đạo Phật không phân  biệt  người  xuất  gia  hay  tại  gia  mà  chỉ dành cho những người có quyết tâm tìm tu giải thoát,  để  thoát  ra khỏi  biển  khổ  sanh  tử  luân hồi. Nhưng điều quan trọng trong sự tu tập này là  phải  thấu  rõ  giáo  pháp  của  đức   Phật  là “Thiện  pháp”,  là  “Đức  hạnh   cao quý”  của loài người và của Thánh nhân, nên muốn tu tập là phải luôn luôn khắc phục tâm, chế ngự tâm, dẫn  tâm  và  làm  chủ  tâm  mình,  để  biết  sống trọn vẹn trong những hành động  đạo  đức nhân bản  –   nhân  quả  không  làm  khổ  mình,   khổ người và khổ tất cả chúng sanh. Muốn được vậy



thì người  tu  tập  phải  nhiệt tâm  tinh cần  sống một  đời  sống  đạo  đức toàn  thiện.  Người  sống được một đời sống như vậy là người chứng đạo, chứ  không  phải  chứng  đạo  ở   chiếc  áo  cà  sa và chiếc đầu cạo trọc. Người tu sĩ Phật giáo tu tập giới luật không nghiêm túc, thường phạm giới, phá giới tức là không ly dục ly ác pháp thì được xem là  một  cư sĩ  trọc  đầu.  Cho nên,  đức  Phật đã  xác  định điều  này  qua hai  câu  kệ  dưới  đây rất rõ ràng:
“Ta  gọi người Trưởng lão.

Chưa hẳn đã xuất gia”

Đây là lời  đức Phật  dạy, chắc quý vị  cư sĩ không  còn  nghi  ngờ  gì nữa,  cũng không  e ngại và  cũng  không  mặc  cảm  với  chiếc  áo  cư sĩ  của mình   sẽ  không  tu  chứng.  Hãy  luôn  luôn  tin chắc  rằng  mình   sẽ  tu  chứng  quả  giải  thoát không thua tu sĩ. Bởi tu chứng theo Đạo Phật không  có  gì  khó  khăn,  chỉ  có  biết  sống  đúng đời sống  đạo  đức nhân  bản  - nhân  quả,  không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh như trên  đã  nói,  thì dù  là  người  xuất  gia hay  tại  gia  cũng  đều  chứng  đạo  như  nhau  cả. Nếu không ngăn ác, diệt ác pháp thì người xuất gia cũng như người  tại gia không thể nào sống đúng  đạo  đức nhân  bản  - nhân  quả  này  được.



Không  sống  đúng   đạo   đức  nhân  bản  –  nhân quả  này  thì chẳng  bao giờ  chứng  đạo, dù  có  tu pháp  môn  nào  cũng  chẳng  có  giải  thoát.  Xin quý vị lưu ý lời dạy này.
Một vị tu sĩ của Đạo Phật tu chứng đạo rất dễ nhận xét: Đó là người nào ly dục ly ác pháp, sống đúng giới luật, tức là sống đúng đạo đức nhân bản - nhân quả không làm khổ mình,  khổ người  và  khổ  chúng  sanh.  Chính  những  người ấy đã chứng đạo, hay nói cách khác là người ấy sống thường tư duy suy xét lại tâm mình  có lỗi thì ngăn chừa, cho nên không hề  vi phạm một lỗi   nhỏ   nhặt   nào.   Người   sống   không   hề   vi phạm một lỗi nhỏ nhặt nào là người chứng đạo. Có phải vậy không quý vị?
Chứng   đạo   đâu   có   nghĩa   là   kiến tánh thành Phật; chứng đạo đâu có nghĩa là phải có thần thông, phép thuật tàng hình,  kêu mây gọi gió,  biết  chuyện  quá  khứ  vị  lai của  mọi người, v.v..; chứng đạo đâu phải ngồi thiền năm bảy ngày, một tháng, hai tháng, một năm, hai năm, v.v.. Chứng đạo chỉ là tâm bất động trước các pháp và các cảm thọ, quý vị ạ!
Từ   xưa  đến  nay  người  ta  cứ  nghĩ  rằng người tu chứng đạo là người phải siêu việt, phải có  đầy  đủ  thần  thông,  phép  thuật,  phải  có  hào



quang,  ánh  sáng  chói  lọi khắp  bầu  trời,  v.v.. chứ người ta đâu nghĩ rằng người tu chứng đạo chỉ  là  người  sống  trọn vẹn đầy đủ đạo  đức làm người  không  làm  khổ  mình,   không  làm  khổ người và không làm khổ tất cả chúng sanh. Đó là  Đạo  Phật,  đạo  giải  thoát  sanh,  già,  bệnh, chết  và  chấm dứt luân hồi. Đây  mới thật  sự là giải thoát, mới thực sự là đạo từ bi, mới thật sự là đạo trí tuệ, mới thực sự là đạo bất động tâm. Còn  những  loại  pháp  môn  khác  chuyên  tụng kinh, niệm  Phật,  sám  hối,  ngồi  thiền,  niệm chú, bắt ấn, cầu an, cầu siêu, thần thông phép thuật,  biết  chuyện  quá  khứ  vị  lai,  xem  sao, đoán vận mạng, xem ngày giờ tốt xấu cất nhà dựng vợ  gả  chồng,  v.v..  toàn  là  những  pháp môn  lừa  đảo,  lường  gạt  người,  mua danh  bán lợi, buôn Phật bán pháp. Cho nên, đức Phật gọi đó  là  những  trò  ảo  thuật  lừa  bịp, gian  xảo  của những  Ma  Vương  Ba  Tuần,  của  Quỷ  La  Sát,
v.v..

Để mọi người thấy rõ giáo pháp của đức Phật  hơn,  bằng  hai  câu  kệ  dưới  đây  Ngài  đã xác định cho mọi người biết rõ để  khỏi lầm lạc tà pháp của ngoại đạo:
“Tu  gốc nghiệp  lành này

Phân biệt ở  chánh hạnh”.



Trong   đời   sống    hằng   ngày,   chúng   ta không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh thì đó không phải là gốc thiện sao?
Câu  kệ  thứ  hai  chỉ  cho chúng  ta  thấy  rõ hơn, nếu muốn biết người tu chứng đạo thì hãy nhìn  vào đạo  đức của họ: “Phân biệt  ở  chánh hạnh”.  Phân biệt ở  chánh hạnh, quí vị thấy có khó không? Chánh hạnh là gì? Chánh hạnh là những hành động đoan chánh ngay thẳng, thấy sai  nói  sai, thấy  đúng nói  đúng, thấy  của  Phật nói của Phật, thấy của Đại Thừa nói của Đại Thừa,  chứ  không  nịnh  bợ,  a dua hay  thấy  sai mà  không  dám  nói  sai, thấy  của  Đại  Thừa  lại nói  là  của  Phật.  Đối  với  Phật  giáo  đó   là  tà hạnh hèn nhát không phải chánh hạnh.
Từ   xưa  đến  nay  chúng  ta  thường  bị  các pháp  môn ngoại  đạo lừa đảo  nào là  có thế giới siêu  hình;  nào  là  ông  Thánh  này  bà  Chúa  kia ban phước  giáng  họa;  nào  là  Thiên  đàng,  Cực lạc,  Niết  bàn;  nào  là  Địa ngục,  Diêm  vương, Quỷ   sứ,   Ngưu   đầu,   Mã   diện,   Ngọc   Hoàng Thượng Đế, Thánh, Thần, Tiên, Phật, tà ma, quỷ quái đủ loại, v.v..; nào là ngồi thiền nhập định; nào  là  để  lại  nhục  thân;  nào  là  tái  sanh luân hồi biết chuyện tiền kiếp của mình;  nào là đại  ngã  tiểu  ngã;  nào  là  bản  thể  vạn  hữu;  nào



là có đấng Tạo hoá, Phật tánh, thần thức, linh hồn, v.v.. đều là những trò ảo thuật lừa đảo mọi người mà thôi.
Những trò ảo thuật này chẳng có gì thiết thực cụ thể, toàn là ảo tưởng, mơ hồ, ảo giác,... và  chẳng  có  gì lợi ích  cho loài  người,  mà  còn làm hại cho con người “tiền mất tật mang”.
Tóm lại, những gì Đạo Phật đã dạy cho chúng  ta  tu  tập  và  sống  thiện  pháp  đều  nằm trong cuộc sống rất thực tế, cụ thể, thường đem lại  lợi  ích  thiết  thực  cho  con  người.  Là  con người, chúng ta chỉ cần biết sống có đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng  sanh,  thì ngay đó  là  hạnh  phúc,  là  giải thoát rồi, còn có gì đâu mà đòi hỏi phải có thần thông, pháp thuật; phải ngồi thiền năm bảy ngày;  phải  được  vãng  sanh  vào  cõi  Cực  lạc, Thiên đàng, Niết Bàn, v.v.. Tu hành theo Phật giáo thì giải thoát ngay liền không cần chờ đợi không gian và thời gian nào cả.

MỌI NGƯỜI GIÀ TRẺ ĐỀU TU CHỨNG

Đạo Phật là đạo bình đẳng: người già cũng như người tuổi trẻ, người nào cũng có thể tu chứng  đạo  giải  thoát  và  cũng  được đức   Phật xem  như  nhau.  Đạo  Phật  là  đạo  vô  giai  cấp,



người  tu  sĩ  cũng  như  người  cư sĩ,  nếu  ai  tu chứng  cũng  đều  được gọi  là  Trưởng  lão  giống như  nhau.  Khi tu  chứng  người  nào  cũng  giống như  người  nào,  người  nào  cũng  vô  lậu.  Trong Đạo Phật không có người tu chứng cao, người tu chứng thấp, vì thế Đạo Phật là đạo  bình đẳng.
Tuổi  trẻ  mà  biết   phân  biệt   được thiện pháp  và  ác  pháp,  biết  sống  ngăn  ngừa  và  diệt ác pháp, luôn luôn sống với mọi người với mọi loài chúng sanh trong thiện pháp, tức là không làm khổ mình, khổ người và khổ tất cả chúng sanh, thì người  ấy  được gọi là  Trưởng  lão.  Hai câu  kệ dưới  đây  đức  Phật  đã  xác  định rõ  điều
này:

“Phân biệt chánh pháp lành

Đây gọi là Trưởng lão”.

Lời đức Phật dạy rõ ràng như vậy, cớ sao quý vị tu tập khó quá! Quý vị có biết tại sao không?  Chỉ  vì  quý  vị  còn  tiếc  dục  và  ác  pháp nên  chưa  muốn  từ  bỏ,  chưa  muốn  xa  lìa. Có phải vậy không?
Hai   câu  kệ   trên  đây  đã   xác  quyết  con đường  giải  thoát  của  Đạo  Phật  không  ngoài thiện  pháp.  Cho  nên,   không   cần  phải   tụng kinh, niệm Phật, luyện bùa, đọc thần chú, ngồi



thiền nhập định mới là giải thoát. Có những người  cho rằng:  Những  hạng  người  căn  cơ còn thấp  kém  thì phải  tụng  kinh niệm  Phật,  ngồi thiền, v.v.. Niệm Phật, ngồi thiền tưởng, cúng bái, tế lễ,  cầu siêu, cầu an, v.v.. là  những pháp môn  mê  tín. Cho nên  lời dạy  này  là  lời  ngụy biện che đậy những tà pháp. Như chúng tôi đã hiểu không lầm, căn bản của Đạo Phật là giới luật, là  đạo  đức làm  người, làm Thánh.  Vì thế, hành giả phải biết khắc phục tâm mình; phải biết sửa lỗi lầm khi mình  phạm phải; phải biết xấu  hổ  khi làm  một  điều  ác,  khiến  cho mình khổ, người khổ, chúng sanh khổ.
Người nào còn chấp Thiền, chấp Định, chấp  Tịnh, chấp  Mật  là  đã   tu  sai  Đạo  Phật. Một  bằng  chứng  cụ  thể  chứng  minh  cho chúng ta thấy rằng: Từ xưa đến nay, trong bốn tông phái này không có một vị tu sĩ hay một vị cư sĩ nào sống toàn thiện không làm khổ mình,  khổ người  và  khổ  tất  cả  chúng  sanh.  Vì  thế,  cho đến ngày nay chưa thấy có một vị Sư, Thầy hay một  vị  cư sĩ  nào làm  chủ  sanh, già, bệnh,  chết và  chấm  dứt  luân  hồi;  thường  chết  trong  bệnh đau và chết trong tưởng định.
Cho nên, kinh Pháp Cú đã xác định rõ rằng:  muốn  tâm  thanh  tịnh  để  nhập  các  loại



định làm  chủ  sự sống  chết,  chấm  dứt  luân  hồi thì chỉ  có  ngăn  ác  diệt  ác  pháp  và  luôn  sống trong thiện pháp:
“Chư ác mạc tác

Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo”.


Dịch
“Các pháp ác chớ làm Các pháp thiện nên làm Tự tâm ý thanh tịnh
Đây lời chư Phật dạy”.


Tóm  lại,  ba bài  kệ  trên  đây  đã  xác  định khi tu  theo  Đạo  Phật  là  phải  thực  hiện  pháp nào đúng của Đạo Phật. Nếu không xác định được pháp  môn  tu  hành  chân  chính  của  Đạo Phật thì dù chúng ta có tu ngàn đời, muôn kiếp cũng  chẳng  tìm thấy  được sự  giải  thoát,  chỉ uổng phí một  đời  tu hành, chẳng ích lợi gì cho mình và cho người khác. Trên đời này, chỉ có Phật  giáo  mới  có  pháp  duy nhất  dạy người  tu tập thoát ra bốn sự khổ đau sanh, già, bệnh, chết.



Đạo  Phật  lấy  đạo   đức  nhân  bản  –  nhân quả,  không  làm  khổ  mình,  khổ  người  và  khổ tất  cả  chúng  sanh  làm  tiêu  chuẩn  sống  để  tu tập  và  rèn  luyện  thân  tâm  mình  cho có  những hành  động  đạo  đức,  khiến  mình  và  mọi người đều được  thanh thản, an vui và hạnh phúc. Đây mới chính là mục đích giải thoát của Phật giáo.


HỔ THẸN
LỜI PHẬT DẠY

“Có hai  nhân duyên mà người tu sĩ đệ tử của đức Phật phải hết sức quý trọng. Đó  là  biết  hổ  và  biết  thẹn.  Nếu con  người  không biết  hai  việc  này  thì cha, mẹ, anh,  em, dòng họ thân tộc, tôn ti cao  thấp không thể  phân  biệt.  Như các loài gà, chó, heo, dê, lừa, ngựa chúng đều cùng một loại nhưng  không có  tôn  ti, trật tự,  vì chúng  không  biết hai pháp này”.
“Do  có  hai pháp  đạo  đức  này ở  đời nên ắt biết có tôn ti sai khác, nhưng những người lìa hai pháp này thì  cũng giống  như   bầy  gà,  chó,   heo,  dê,  lừa, ngựa,  v.v..  kia vậy,  thật không thể  lễ
bái họ được’’.

(Tăng Nhất A Hàm trang 117)


CHÚ GIẢI:



Đạo   Phật   lấy   thiện   pháp   làm   pháp
môn  tu  tập  để   đẩy  lùi  các  ác  pháp,  nên  Đạo Phật có một nền đạo  đức nhân bản – nhân quả làm  Người,  làm  Thánh  được đức   Phật  chú  ý hàng  đầu.  Vì thế,  toàn  bộ  kinh sách  Phật  giáo đều lấy giới luật làm gốc để  dạy người tu tập từ cơ bản  đến  Tam  Minh. Bởi  vì  con người  cũng chỉ  là  một  loài  động  vật,  nhưng  loài  động  vật cao cấp. Dù cao cấp đến đâu bản chất loài động vật  vẫn  còn.  Muốn  trở  thành  một  con  người thật là con người, thì phải sống có đạo đức trọn vẹn,   sống   một   đời  sống   biết   thương   người, thương  vật  như  thương  chính  mình.  Đạo  đức làm người chưa đủ để giúp cho chúng ta thoát kiếp làm người đầy khổ đau. Vì vậy, chúng ta phải tiến bước trên đường đầy đủ  trọn vẹn đạo đức cao hơn nữa để trở thành những bậc Thánh vô  lậu,  làm  chủ  bốn  sự   đau  khổ:  sanh,  già, bệnh,  chết  và  chấm  dứt  luân  hồi.  Đó   là  ước vọng của những người có cái nhìn  thấy thế gian này  khổ  như  thật,  và  biết  pháp  Phật  là  giới luật  đạo  đức cao quý  tuyệt  vời,  giúp  con người mãn nguyện.
Cho nên,  những  vị  Tỳ  Kheo Tăng  và  Tỳ
Kheo  Ni hoặc  những  vị  cư sĩ  xem thường  giới



luật, luôn luôn sống phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới, để  chạy theo dục lạc thế gian, thì dù  có tu trăm  ngàn  kiếp  cũng  chỉ  thành  loài  sâu  bọ trong  Phật  giáo  mà  thôi.  Những  người  tu  sĩ hoặc  cư sĩ  sống  phạm  giới,  phá  giới,  bẻ  vụn giới,  thường  đắm  chìm  trong  dục  lạc  thế  gian thì không bao giờ tìm thấy sự hỷ lạc, giải thoát trong  Đạo  Phật,  bởi  vì  đức  Phật  đã  xác  định: “Do  ly dục sanh hỷ lạc”. Còn các thầy Đại Thừa và Thiền Tông hiện giờ xem thường giới luật  thì dù  cho các  vị  có  ngồi  thiền  một  ngàn năm cũng chỉ lạc vào ma thiền, chứ không bao giờ chứng được  sự giải thoát chân thật.
Giới là một pháp môn vô lậu mà cũng là một  pháp  môn  dạy  về  đạo  đức tuyệt  vời.  Giới làm  Người,  giới  làm  Thánh  một  cách  rõ  ràng và cụ thể; giới cũng là một pháp môn để  chuẩn bị cho hành giả nhập các loại chánh định. Nếu không  tu   giới   luật   thì  không  bao  giờ   nhập chánh định được. Không nhập chánh định được mà  nói  nhập  định  là  nói  vọng  ngữ  lừa  đảo người  khác,  bởi  chánh  định là  loại  thiền  định không dành cho những người phạm giới, phá giới, bẻ vụn giới. Đúng như vậy quý vị ạ!
Người muốn giữ gìn giới luật mà không biết xấu  hổ  thì không  bao giờ  giữ  gìn giới  luật



được, cũng giống như người muốn tu thiện pháp mà không biết xấu hổ thì không bao giờ tu tập thiện pháp được.  Đó là một điều xác quyết chắc chắn  như  vậy,  không  ai  có  thể  thay  đổi được điều  này.  Nếu  ai  dám  cả  gan  thay  đổi  pháp môn  của  đức  Phật  là  sẽ  tu tập  lạc  vào  pháp  tà
đạo.

Người muốn giữ gìn đức hạnh làm Người, làm Thánh mà không biết xấu hổ thì  chẳng bao giờ giữ gìn đức  hạnh được, cũng như thế, người muốn tu hành giải thoát mà không biết xấu hổ thì không  bao giờ  có  giải  thoát  được. Chỉ  có pháp ngoại đạo mới không biết xấu hổ.
Bởi  vậy,  tàm  quý  (xấu  hổ)  là  đức  hạnh mà người không tôn giáo cũng như người có tôn giáo  đều  phải  quý  trọng  hơn  vàng  bạc,  châu báu,  ngọc  ngà  vì nó  giúp  cho con người  có  đạo đức không làm khổ mình, khổ người và khổ chúng sanh; nó giúp cho con người giải thoát khỏi tâm phiền não, khổ đau, giận hờn, thương ghét;  nó  giúp  cho con người  có  một  cuộc  sống an  vui,  thanh  thản  và  vô  sự;  nó  giúp  chuyển cảnh giới thế gian thành Thiên đàng, Cực lạc.
Nếu người nào không biết tàm quý thì người  đó  chẳng  khác  loài  cầm  thú,  chẳng  còn biết luân thường đạo lý gì cả.



Nếu   người   nào   sống   trong   ác   pháp thường làm khổ mình,  khổ người và khổ tất cả chúng  sanh,  mà  không  biết  xấu  hổ  (tàm  quý), thì đó  cũng là loài ác thú chứ không còn là con người và còn tệ hơn thế nữa, họ là loài ác quỷ.
Nếu một vị Tỳ Kheo Tăng hay một vị Tỳ Kheo Ni hay một  vị  Cư sĩ  phạm  giới, phá  giới, bẻ vụn giới mà không biết xấu hổ (tàm quý) thì họ là loài bọ chét trong lông  thú vật, đức  Phật thường  nhắc  nhở  chúng Tỳ  Kheo trong  câu nói này: “Trùng  trong lông  sư tử  ”. Những  tu sĩ và cư sĩ này không phải đệ  tử của đức Phật. Họ là  những  người  tán  tận  lương  tâm  và  tệ  hơn nữa  họ  là  loài  Ma  vương  cùng  với  ma  chúng đang cố tình  diệt Phật giáo.
Tóm lại,  tàm  quý  là  đức biết  xấu  hổ,  nó là một pháp môn rất cần thiết cho người đời cũng  như người  trong  đạo. Người  có  quyết  tâm tìm đường  cứu  mình  thoát  ra sanh,  già,  bệnh, chết và luân hồi thì tàm quý là pháp môn hàng
đầu.

Nếu  làm  người  mà  không  biết  xấu  hổ, như đã nói, thì có khác nào là thú vật, luân thường  đạo  lý  trong  thế  gian  này  sẽ  đảo  lộn, cang thường đạo  đức (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) không còn nữa. Người ta sẽ chà đạp lên nhau vì



sự sống miếng ăn, manh áo và vật chất; tình người  sẽ  bị  mất  đi;  trên  hành  tinh này  chiến tranh không  bao giờ  chấm  dứt.  Loài  người  chỉ còn là một loài thú vật thông minh cấu xé, giết hại lẫn nhau mà thôi.
Tóm  lại,  đoạn kinh trên  dạy  cho chúng ta tu tập đức xấu hổ. Đức xấu hổ là một hành động cao quý tốt đẹp của loài người, nếu không có đức xấu hổ con người chỉ là con thú vật. Nhờ đức  xấu  hổ  mà  con người  không  làm  điều  ác, tăng trưởng làm những điều thiện khiến cho sự sống  trên  hành  tinh này  được  an vui  và  hạnh phúc.





KHĨ! KHĨ! KHĨ!!!


LỜI PHẬT DẠY

“Như Lai ra đời rất  khó gặp,  thân người khó được,  sanh  trưởng vào trung tâm  của  đất  nước  cũng  khó được,  gặp thiện tri thức cũng  khó, gặp  được chánh pháp cũng khó, nghe được pháp cũng khó”.
(Tăng Nhất A Hàm tập 3 trang 218)


CHÚ GIẢI:

Đời người sanh ra có sáu cái khó mà mọi người  chẳng  ai  lưu ý,  vì thế  cuộc  đời  phải  chịu biết bao nhiêu điều thống khổ. Khi tu hành chứng đạo,  đức Phật nhìn  thấy chúng sanh bạc phước, vô duyên nên cảnh báo cho biết có sáu điều khó để mọi người cảnh giác như đoạn kinh trên đây đã xác định:

    Khó  thứ  nhất:  “Như  Lai ra đời rất khó gặp”.  Vậy  Như  Lai  nghĩa  là  gì? Như  Lai là một danh hiệu của đức Phật.



Sanh  ra được đồng  thời  với  đức  Phật  là một  điều khó,  cũng  như chúng  ta  hiện  giờ  làm sao sanh ra đồng  thời  với  đức  Phật  được. Phải không hỡi các bạn?
Chúng ta sinh  ra đời  đã cách xa đức  Phật
2548 năm,  đến  ngày  nay nhìn  lại  tu  sĩ  hay cư sĩ của Phật giáo ngoài hình thức đầu tròn áo vuông của một tu sĩ, hay một cư sĩ  mà thôi còn bên  trong  chỉ  là  Ma  Ba Tuần  đội  lốt  để  kinh doanh mê tín, trừu  tượng, ảo  giác thế  giới  siêu hình.  Vì thế, người tu theo Phật giáo rất đông, nhưng  chẳng  có  ai  giải  thoát  thực  sự.  Nếu  tất cả  mọi  người  được sanh  ra đồng  thời  với  đức Phật  là  một  điều  may mắn  nhất  trên  đời,  nhờ đó chúng ta nương tựa vững chắc vào Ngài tu hành, thì đến nay mọi người sẽ tu hành  chứng đắc quả A La Hán không biết bao nhiêu kể cho
hết.

Bởi vậy gặp Phật là khó, ngày xưa khi đức Phật  sinh  ra, nhà  vua nhờ  vị  Tiên  nhân  Asita đến xem tướng số cho đức Phật thì ông quỳ xuống  đảnh  lễ   Phật  sơ sinh  và  khóc  to.  Nhà vua thấy thế mới hỏi:
-           Sao ông lại khóc?

Tiên nhân Asita  trả lời:

Trưởng lão THÍCH THÔNG LẠC


-    Ngày  sau  này  thái  tử  lớn   lên  đi  tu thành Phật, lúc bây giờ tôi đã chết rồi còn đâu hỏi đạo tu hành, nên tôi khóc vì buồn tủi.
Sinh  ra không đồng thời với bậc Giác ngộ là  một  điều  bất  hạnh  to  tát  của  đời  người,  bởi vì “Như Lai ra đời rất khó gặp”.
Gặp được Phật ra đời là khó. Sinh  ra đồng thời với Phật không phải dễ. Nhưng biết bao nhiêu  người  sinh   ra  đồng  thời  với  Phật  mà chưa  hề  biết  đến  Phật.  Người  biết  đến  Phật trong thời đó chỉ là thiểu số trong dân tộc Ấn Độ. Nhưng có những kẻ gặp được Phật lại phỉ báng  Phật,  lăng  nhục  Phật,  muốn  giết  Phật, v.v.. Thật là “vô duyên  đối diện bất tương phùng”.

     Khó  thứ  hai:  “Được   thân  người   là khó, khó  như   con  rùa  mù  tìm bọng  cây giữa biển Đông”.
Lời dạy này chúng ta hãy tư duy. Khi mất thân này rồi, trăm muôn ngàn kiếp không biết có đủ duyên để sanh lại làm người nữa hay không? Chắc khó lắm. Nhưng thân người chỉ sống có một thời gian quá ngắn ngủi, thế mà người đời đã tiêu phí năm tháng của thân này một  cách  nhảm  nhí,  chẳng  có  ích lợi gì cả,  chỉ



loanh  quanh  để   phục  vụ  cho những  điều  bất tịnh:  ăn,  ngủ,  dâm  dục,  đi  cầu  chứ  chẳng  có nghĩa lý gì tốt đẹp. Có phải vậy không các bạn?
Người  cư sĩ  cũng  như  người  tu  sĩ,  họ  đều biết cuộc đời là khổ, thế nhưng họ không dám buông bỏ. Không dám buông bỏ, nhưng rồi cũng phải  buông  bỏ  để  đi  vào  cõi  chết  với  hai  bàn tay trắng. Con người  chết  đi thân ngũ  uẩn tan hoại  hết,  không  còn  tồn  tại  một  vật  gì, nhưng vì cuộc  sống  hằng  ngày  luôn  tạo  thiện  hay tạo ác. Do hành động tạo thiện ác đó  đã  trở thành nghiệp lực tham, sân, si. Nghiệp lực tham, sân, si tiếp tục tương ưng với tâm tham, sân, si của mọi người và mọi loài vật mà tái sanh luân hồi.
Bởi không buông bỏ  tâm tham, sân, si tức là chấp nhận nó để tiếp tục sống trong sự đau khổ như tất cả các loài chúng sanh khác. Còn nếu theo lộ trình tu hành của Đạo Phật mà biết buông bỏ sạch thì họ không còn khổ đau nữa và cũng chấm dứt luân hồi.
Tu sĩ và Cư sĩ thời nay chẳng có vị nào buông  bỏ  cả.  Họ tích  lũy  thêm  vật  chất,  sống rất tiện nghi như một người giàu có và họ cũng còn  ham  vui  như  người  thế  tục.  Đi  tu  như  họ chỉ uổng công mà thôi. Họ không tiếc thời gian của thân họ sắp tàn tới nơi rồi, tuổi đời không



còn  mấy  năm  nữa,  nên  Phật  dạy: “được  thân người là khó” thế mà mấy ai biết !!!
Khi chết  rồi  không  chắc  gì  chúng  ta  sẽ sinh  làm  thân  người  liền, mà  phải  sanh  làm loài  vật  như  cá,  tôm,  vịt, gà,  heo, dê,  trâu  bò, chó, ngựa, v.v.. chỉ vì chúng ta đã giết chúng để ăn thịt. Nợ xương máu phải trả  chứ không thể nào trốn  chạy thoát  khỏi.  Ăn  một  mạng  chúng sanh phải trả mười mạng. Các bạn có biết không?
Như vậy, được thân người là khó chứ đâu phải  dễ.  Một  đời  của  bạn  biết bao nhiêu  tôm, cá, gà, vịt, heo, dê  đã  chôn vùi trong thân bạn. Một  con vật  bị  bạn  ăn  thịt  thì bạn  phải  tái sanh làm mười con vật. Và như vậy, từ khi bạn mới  biết ăn  thì cha mẹ  đã  cho bạn  ăn  thịt  cá, đến suốt cuộc đời  bạn bảy tám mươi tuổi thì số lượng thịt  cá  bạn ăn  không  thể  tính hết  được. Theo  luật  nhân  quả  phải  nhân  lên  gấp  mười lần  thì biết  chừng  nào  bạn  trả  cho hết  thân mạng chúng sanh! Cho nên, được thân người là khó lắm bạn ạ!
Được thân người mà  làm người  thật  người thì còn khó hơn. Phải không hỡi các bạn?
Bởi vì như các bạn đã biết: con người thật người thì phải sống đúng năm tiêu chuẩn này:


0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Ví bạn hãy dùng ngôn ngữ lịch sự, tôn trọng lẫn nhau, mỗi người có cấp độ trình độ riêng nên không nên phán xét nếu không thông hiểu. Xin cảm ơn!